Bài đăng ở Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 06 (450) 2020)
Tóm tắt: Kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc Đổi mới (1986),
hội nhập, toàn cầu hóa đã có tác động ngày càng lớn đến đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội vùng dân tộc thiểu số (DTTS), đồng thời cũng tác động đáng
kể đến bức tranh dư luận xã hội (DLXH) nơi đây qua việc làm thay đổi những thực hành liên quan của
người dân. Kết quả khảo sát thực địa của chúng tôi ở nhiều địa phương thuộc
vùng DTTS cho thấy, người
dân đã không ngừng mở rộng những vấn đề quan tâm của mình trong bối cảnh mới, và - bằng phương tiện truyền thông kỹ thuật số - họ đã nói được với nhiều người hơn, ở nhiều nơi, vào
nhiều thời điểm và theo nhiều cách thức đa dạng hơn về điều họ muốn nói.
Từ khóa: Dư luận xã hội, Toàn cầu hóa, Dân tộc thiểu số
Abstract:
After the time when
Vietnam carried out the Innovation (“Đổi Mới”) work, thereby promoting
its integration with the world, the context of globalization has had an
increasingly large impact on the economic, cultural and social life of the ethnic minorities. It also has a
significant impact on the public opinion landscape here by changing the related
practices of the people. The results of our field survey in many ethnic
minority areas show that people are constantly expanding their concerns between
the new context and - using digital media - they spoke to many people, in many
places, at different times and in a variety of ways about what they wanted to
say.
Key words: Public opinion, globalization, ethnic
minorities
Mở đầu
Ở
Việt Nam có 53 DTTS. Theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính
phủ về công tác dân tộc, vùng DTTS là địa bàn có đông các DTTS cùng sinh sống ổn
định thành cộng đồng trên lãnh thổ đất nước.
Trên tinh thần xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm để
từ đó mở rộng ra các lĩnh vực khác, quá trình hội nhập với toàn cầu đã đưa đến
những chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế và tiếp đó là về xã hội và văn hóa ở Việt
Nam. Đặc biệt, vùng DTTS, vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa tưởng chừng như sẽ khó khăn với tiến
trình hội nhập thì cũng đã có nhiều thay đổi, trong đó có những thay đổi về bức
tranh DLXH.
1. Vài nét về vùng dân tộc thiểu số dưới tác động của toàn cầu hóa
Vùng DTTS
Việt Nam chia sẻ bối cảnh chung với các vùng miền khác khi đất nước đẩy mạnh hội nhập. Đặc biệt
kể từ
khi Đổi mới, Việt Nam là một trong những nước đang phát triển
nhận được nhiều dự án về kinh tế và văn hóa - xã hội do nước ngoài và các tổ chức
quốc tế tài trợ mà vùng DTTS chính là đích đến của một bộ phận đáng kể trong số
đó.
Người dân vùng DTTS đã đón nhận cả hai dòng chảy lớn nhất
của toàn
cầu hóa: toàn
cầu hóa về kinh tế và toàn cầu hóa về văn hóa.
* Về kinh tế: Toàn cầu hóa đã làm thay đổi cơ bản hoạt động kinh tế của Việt Nam nói
chung và vì thế, nó cũng dẫn đến sự gắn kết của thị trường vùng DTTS với thị
trường quốc tế về hàng hóa, dịch vụ, tài chính - tiền tệ... Điều này mang lại cả
những ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đối với đời sống của người vùng DTTS.
Có thể thấy, toàn
cầu hóa về kinh tế đã đem đến cho vùng DTTS Việt Nam những mặt tích cực. Thứ nhất, nền kinh tế quốc gia trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới
giúp cho nền kinh tế của vùng DTTS có điều kiện hội nhập với thế giới bên
ngoài, mở rộng cơ hội tìm kiếm thị trường và thu hút vốn đầu tư. Thứ hai, sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu đem đến khả năng khai thác, vận dụng một
cách hiệu quả thế mạnh của từng địa phương cho sự phát triển (ví dụ như thế mạnh
về sản phẩm du lịch, về các mặt hàng nông nghiệp truyền thống...). Thứ ba, xu thế toàn cầu hóa đặc biệt mở
ra triển vọng lớn cho các địa phương trong việc tiếp thu những thành tựu về
khoa học - công nghệ hiện đại để “đi tắt đón đầu”, rút ngắn được khoảng cách
phát triển với các khu vực khác.
Tuy nhiên, toàn cầu
hóa cũng khiến vùng DTTS Việt Nam phải đối mặt với một số vấn đề. Thứ nhất, sự thúc đẩy khai thác tài nguyên cho mục đích công nghiệp hóa và những
hệ lụy của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho mục đích xuất khẩu dẫn đến việc
người DTTS tại chỗ mất tư liệu sản xuất. Thứ
hai, mặt trái
từ sự đầu tư dồn dập của các tập đoàn kinh tế bên ngoài vào các vùng DTTS gây ảnh hưởng lớn tới môi trường sống cả về mặt tự nhiên và xã hội, khiến
cho tình trạng ô nhiễm (đất, không khí, nguồn nước...), bệnh tật, tệ nạn xã hội...
gia tăng. Thứ ba, việc di cư ồ ạt lên
vùng cao thúc đẩy mâu thuẫn tộc người do khả năng tự bảo vệ của người dân tộc tại
chỗ
còn hạn chế (liên quan đến vốn kinh tế, vốn xã hội...), khiến vùng DTTS
có nhiều bất ổn. Thứ tư, bối cảnh mới
khiến cho cơ hội nghề nghiệp của người DTTS tại chỗ không nhiều, vì nhìn chung họ không phải luôn có đủ trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm... để đáp ứng. Thứ năm, năng lực thị trường thấp khiến người dân vùng DTTS có nguy cơ tụt hậu khi
tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo ở đây.
Như vậy, ảnh hưởng của toàn cầu hóa về kinh tế đối với người DTTS mang tính hai mặt. Nó mở ra cơ hội cho họ,
nhưng cũng đưa tới nhiều thách thức.
* Về văn hóa: Toàn cầu hóa thúc
đẩy sự giao lưu giữa các hệ giá trị văn hóa trên thế giới với
hệ giá trị văn hóa dân tộc. Nó tạo điều kiện cho những hệ giá trị văn hóa mới từ
bên ngoài du nhập, dẫn đến việc người dân vừa tiếp thu các chuẩn mực/giá trị mới, vừa đánh giá/lựa chọn lại các chuẩn mực/giá trị cũ trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, điều này đã góp phần làm thay đổi văn hóa của nhiều tộc người,
nhiều vùng miền. Đặc biệt, bối cảnh toàn cầu hóa khiến người DTTS có cơ hội tiếp xúc với các hệ tư tưởng khác nhau trên thế
giới, dẫn đến việc nhìn nhận lại các ngôn thuyết liên quan đến tiến hóa luận,
qua đó làm họ có ý thức cao hơn/khác đi về vấn đề tộc người, vấn đề dân chủ -
nhân quyền...
Cũng như ảnh hưởng của toàn cầu hóa kinh tế, ảnh
hưởng của toàn
cầu hóa văn hóa đối với người DTTS có tính đa chiều. Bên cạnh việc
nền văn hóa của mỗi dân tộc có cơ hội lan tỏa ra bên ngoài cũng như tiếp nhận
những yếu tố bên ngoài để làm phong phú cho chính mình, người DTTS cũng phải đối
mặt với những nguy cơ mà tiêu biểu là nguy cơ xóa nhòa các đường biên văn hóa dẫn đến xung đột giữa các nền văn hóa và nguy cơ bị “hòa tan”.
2. Dư luận xã hội của
người dân vùng dân tộc thiểu số trong bối cảnh toàn cầu hóa
Trong bối cảnh
vùng DTTS chịu tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, dư luận xã hội của
người dân nơi đây cũng chịu tác động đáng kể. Dưới đây là một số ghi nhận
của chúng tôi trong quá trình điền dã ở 11 tỉnh thành từ Bắc vào Nam thuộc vùng
DTTS trong khuôn khổ Đề tài khoa học cấp
Nhà nước “Những vấn đề lý luận
và thực tiễn về DLXH ở vùng DTTS trong bối cảnh toàn
cầu hóa”.
2.1. Phương tiện truyền thông - một
trong những công cụ đưa người dân tộc thiểu số bước vào toàn cầu hóa
Trong
số các phương tiện truyền thông mà người dân có thể tiếp cận, chúng tôi tập
trung phân tích hai kênh quan trọng là truyền hình và internet - những phương tiện đã đưa thế
giới đến gần hơn
với người dân ở vùng DTTS và vì thế có vị trí quan trọng
trong đời sống DLXH nơi đây.
Khảo sát của chúng tôi cho thấy, truyền hình là một trong
những kênh quan
trọng hàng đầu hiện nay đối với người dân các khu
vực này trong việc tìm kiếm thông tin (72,6% người được khảo sát tiếp
cận thông tin qua kênh này). Còn internet tuy
chưa thực
sự phổ biến song cũng là kênh được nhiều người lựa chọn (29,8%).
Theo
nghiên cứu hơn một thập niên trước của C. Baker (2008), truyền hình là phương tiện truyền thông nằm trong mối quan tâm của công
chúng trên thế giới.
Còn theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, hiện nay ở Việt Nam, truyền hình vẫn đang chiếm một vị trí đặc biệt ý nghĩa trong việc tiếp cận thông tin của
người dân vùng DTTS,
giúp người dân tiếp cận với cả những vấn đề vượt lên trên biên giới quốc gia. Sự hiện diện phổ biến của
chiếc tivi đã khiến truyền hình trở thành kênh truyền thông giữ vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần thường nhật của người
dân. Một phần đáng kể nhờ đó mà người dân vùng DTTS không còn ở trong tình trạng thiếu thông tin từ các
phương tiện truyền thông đại chúng, kể cả trong trường hợp họ không biết đọc
(vì “báo hình” đáp ứng được
nhu cầu thông tin của cả những người mù chữ). Trong
các
chương trình truyền hình, thời sự (bao gồm
cả thời sự quốc tế) là một trong
những chương trình được yêu thích của rất nhiều người. Ngoài ra, các kênh truyền hình mất phí cũng không xa lạ với những gia đình ở vùng trung tâm, hoặc những gia đình có
điều kiện khá giả ở vùng ngoại vi.
Internet cũng là kênh quan trọng trong việc tìm kiếm,
trao đổi thông tin của người DTTS. Dù chưa phủ song hoàn toàn ở vùng DTTS, nhưng internet đã được sử dụng bởi hơn 1/3 số người được hỏi (38,2%). Trong số đó, có 76,3% truy cập nhiều hơn 1 lần/ngày, 16,9% truy cập 1 lần/3-4 ngày; số
người cả tuần mới truy cập một lần chỉ chiếm 6,8%. So
với kết quả nghiên cứu của D. Trend hơn một thập niên trước, khi phần lớn các tộc người không thuộc phương Tây và đa số dân cư trên thế giới vẫn chưa thể sử dụng internet do “thiếu tiền, thiếu sự tiếp cận hoặc không có kiến thức” (Trend, 2005: 2),
thì con số này ở vùng DTTS Việt Nam hiện nay là
rất đáng kể.
Mặc dù còn có những tranh cãi, nhưng internet được xem như một không gian của sự dân chủ hóa (Poster, 1997). Trước hết, nó tạo điều kiện cho sự lưu hành thông tin và đối thoại.
Sau nữa, do đặc tính siêu văn bản khi văn bản này dẫn dắt đến văn bản khác bởi các
đường liên kết điện tử, nó khiến độc giả có tính tích
cực (Landow, 2005). Tất cả những điều đó đều gắn với sự dân chủ, vì tự do thông tin
luôn là hòn đá tảng của dân chủ. Trên thực tế, với việc mở ra những cơ hội mới
cho những tiếng nói mới, internet đã tạo ra một không gian tự do cho đời sống
dư luận của người dân Việt Nam nói chung và người dân vùng DTTS nói riêng. Internet tạo ra
cơ hội cho
tất cả mọi người được tiếp cận và chia sẻ thông tin, không phân biệt sắc tộc, dân tộc, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội... Đúng như
nhận định của Sassen (2002), internet chính là một phương tiện trung gian để những người thường bị xem là “không phải
tinh hoa” đóng góp vào một xã hội dân sự dân chủ hơn. Nói cách khác, nó cho
phép tất cả các nhóm bị loại trừ tham gia vào các quá trình dân chủ.
Để truy cập internet, số
liệu khảo sát của
chúng tôi cho thấy, người dân chủ yếu sử dụng điện
thoại thông minh (smartphone) thay vì các thiết bị khác, không chỉ vì nó có sự “hội tụ
công nghệ” (đa chức năng), mà còn vì nó
thuận tiện trong sử dụng. Trong số 83,7% thông tín viên cho biết có sử dụng điện
thoại, có tới một nửa sử dụng điện thoại thông minh, và hầu hết những người sử dụng internet cũng là những người sử dụng điện thoại
thông minh (93,7%).
Điện thoại thông minh thực tế vẫn là một thứ tài sản khá có giá trị với nhiều người DTTS. Ở vùng ngoại vi, việc có được một chiếc điện thoại thông
minh là một sự cố gắng nhất định: “Điện thoại của tôi mua trả góp hàng
tháng! Đã mua đứt được đâu, tháng năm trăm ngàn! Người ta có mình phải có chứ,
người ta mua được mình cũng phải mua được. Thời buổi này là thời buổi công nghệ
mà” (nam 40 tuổi, người M'Nông, xã Yang Tao, huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk). Ngược lại, ở khu vực trung tâm, điện thoại thông minh hết sức phổ biến, và
việc không có nó sẽ được là một sự lạ: “Bây giờ mà không dùng nó thì có mà
không bình thường à?” (nam 40 tuổi, người Nùng, thị trấn Thất Khê, huyện
Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn); “thanh niên từ
15 - 16 tuổi là bắt đầu dùng mạng rồi” (Trưởng khu phố thị trấn Thất Khê,
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn).
Có thể nói, bức tranh DLXH ở vùng DTTS hiện nay liên quan nhiều đến những
điều kiện về truyền thông khi mà sự giao lưu với thế giới bên ngoài dân tộc, ngoài địa
phương, thậm chí ngoài đất nước của người dân được cải
thiện.
2.2. Những thay đổi về nội dung và hình thức trong DLXH vùng dân tộc thiểu số
Toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ
đến quá trình hình thành DLXH của vùng DTTS ở cả hai khía cạnh nội dung và hình
thức.
* Nội dung Dưới tác động của
bối cảnh toàn
cầu hóa, người dân vùng DTTS Việt Nam không còn chỉ giới hạn “mô hình quan tâm” ở những sự kiện, hiện tượng có ảnh
hưởng trực tiếp đến mình như trước (Cantril, 1966). Do sự
bùng nổ của công nghệ thông tin, người dân nơi đây ngày quan
tâm nhiều hơn đến những vấn
đề xã hội, không chỉ ở địa phương mà
còn cả ở ngoài phạm vi dân tộc, địa phương, vùng miền, có thể là những vấn đề rộng lớn mang tính toàn cầu
như ô nhiễm môi trường, khủng bố, buôn người xuyên biên giới,
buôn
bán hàng giả... Điều này là dễ hiểu, vì toàn cầu hóa đã dẫn đến một quá trình “giải ranh giới” qua việc xóa mờ đường biên giữa
các quốc gia/vùng lãnh thổ.
Ô nhiễm môi trường toàn cầu là vấn đề được các thông tín
viên đề cập
khá nhiều: “Ngày nay ô nhiễm
là ô nhiễm chung, không thể nói là chuyện riêng của nước nào. Bởi vì ô nhiễm bây giờ không còn ở mức độ đơn giản và cục bộ như xưa nữa. Như cái chuyện hiệu ứng nhà kính đấy... Thế nên đã là công dân thế giới
thì đều phải có ý thức cả” (nam 61 tuổi, người Thái, khối 4, thị trấn Tân Lạc, Quỳ Châu, Nghệ An). Tuy
nhiên, chiếm vị trí quan trọng trong mối quan tâm của dư
luận vùng
DTTS vẫn là những vấn đề thiết thân của người dân ở địa phương,
trong đó nổi bật nhất chính là vấn đề sinh kế: sự suy thoái của đất đai và nguồn nước sản xuất do ảnh hưởng của ô
nhiễm
môi trường; tình trạng bị vô hiệu hóa của tri thức bản địa trong nông nghiệp; sự phụ thuộc bất khả kháng của hộ
gia đình vào hệ thống kinh tế bên ngoài; sự bất bình đẳng trong thu nhập và trong việc tiếp
cận các cơ hội phát triển; việc được đền
bù tư liệu sản xuất chưa thỏa đáng từ các dự án phát triển... Những vấn đề này ít nhiều đều có liên quan đến các giá trị mới - cái được hình thành bởi toàn cầu hóa. Trong đó, đáng chú ý nhất là những vấn đề liên quan đến ý thức về quyền con
người và tộc người.
* Hình thức
Về đối tượng: Trước đây, người dân thường chỉ trao đổi thông tin với những
người thân quen. Nhưng hiện tại,
bên cạnh những mối
quan hệ truyền thống, nhờ Internet và các phương tiện kỹ
thuật số mà
người ta có thể dễ dàng tiếp xúc với người khác (kể cả những người
xa lạ) trong một không gian ảo. Nói cách khác, Internet kết nối những con người từ các nền tảng đa dạng lại với
nhau. Mỗi người sẽ trở thành một điểm trong một tập hợp liên kết, sự trải rộng của tập hợp ấy “vượt xa những gì mà người sử dụng có thể tưởng
tượng” (Shields, 1996: 7). Với nhiều tính năng của mạng xã hội, những người tham gia vào các thực hành
liên quan đến dư luận sẽ thoải mái trao đổi, thể hiện ý kiến về những vấn đề
mình quan tâm.
Có những ý kiến cho biết, khi cảm thấy cần lên tiếng về một vấn đề của địa phương, họ thường sử dụng những
cách thức quan phương (ví dụ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội), nhưng lúc nào bức xúc quá thì sẽ đưa ý kiến lên mạng xã hội. Mạng xã hội là nơi mà nhiều người sẽ biết đến câu chuyện người ta
muốn nói, nhờ đó câu chuyện sẽ lan xa hơn
mức chờ đợi (nam 36 tuổi, người Dao,
bản Sì Choang, xã Vàng Ma Chải, Phong Thổ, Lai Châu).
Về địa điểm: D. Croteau và
W. Hoynes (2003) từng nhận định, Internet đã phá tan sự cách biệt về mặt
địa lý giữa những người tương tác.
DLXH vùng DTTS hiện nay cũng tương
tự, không có một không
gian “vật chất” nào tồn tại giữa người nói và người tiếp nhận, vì không gian ảo
đã xóa nhòa mọi ranh giới: “Thời
buổi công nghệ thông tin rồi, đâu phải như ngày xưa. Anh em bây giờ muốn nói chuyện gì cũng không cần phải tụ
tập với nhau mới nói được” (nam 53 tuổi, người Thái, tổ 7, thị trấn Sông Mã, Sông Mã, Sơn La).
Bảng 1: Thời điểm trao đổi
những thông tin quan trọng sau khi
tiếp nhận (%)
|
|
Có
sử dụng Internet
|
Không
sử dụng Internet
|
Chung
|
1. Trao đổi ngay sau khi nhận tin
|
12,9
|
26,3
|
21,2
|
2. Suy nghĩ kĩ rồi mới trao đổi
|
57,8
|
44,2
|
49,4
|
3. Tùy vào từng loại tin, vấn đề mà suy nghĩ kĩ
hoặc trao đổi ngay khi nhận tin
|
28,6
|
27,2
|
27,7
|
4. Khác
|
0.7
|
2,2
|
1,6
|
R.D.
Putnam (1995)
từng lo ngại rằng, những xu hướng kỹ thuật đang
“riêng tư hóa” hoặc “cá nhân hóa” một cách triệt để việc chúng ta sử dụng thời
gian rảnh
rỗi, và vì
vậy cộng đồng của chúng ta sẽ trở nên tuy rộng nhưng nông
hơn.
Tuy nhiên, ở nhiều trường hợp nghiên cứu của chúng
tôi, người dân khẳng định việc chỉ gặp gỡ gián tiếp
qua phương tiện kỹ thuật số không làm giảm đi mối quan hệ của họ với những
người khác trong cộng đồng. Ngược lại, trên góc độ nào đó, nó còn có thể làm
cho mối quan hệ ấy gắn bó hơn: “Ai
cũng bận rộn cả, hết việc mưu sinh lại đến việc nhà cửa nên có phải lúc nào
cũng gặp nhau được đâu, chính nhờ cái điện thoại mà vẫn duy trì được sự giao
tiếp thường xuyên. Chia sẻ với nhau được nhiều
chuyện, có chung nhiều mối quan tâm thì sự thân thiết lại còn tăng lên ấy chứ!”
(nữ 35 tuổi, người Tày, khu 1, thị trấn Thất Khê, Tràng Định, Lạng Sơn). Đây cũng chính là một điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường sức sống của
các thực hành liên quan đến dư luận ở người dân.
Về
thời điểm: Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số
đã xóa đi nhiều giới hạn của sự tương tác về mặt thời gian, hay nói cách khác
là xóa đi nhiều khoảng thời gian (riêng
tư) được mặc định
là không nên tương tác (giờ ăn, giờ ngủ,…). Việc xâm phạm thời gian riêng tư của
người khác có thể không còn bị coi là vấn đề lớn, bởi người tiếp nhận thông tin
có thể được lựa chọn “đáp lại thông tin” ngay lập tức hay không. “Bây
giờ chuyện liên lạc rất thuận tiện, lúc nào cũng được chứ không như trước! Có
những việc không trao đổi sớm để quyết định là lỡ mất thời điểm” (nam 56 tuổi, người Thái, khu 11, thị trấn
Mường Tè, Mường Tè, Lai Châu).
Về cách thức: Với việc cân nhắc về
các thông tin trước khi trao đổi, chỉ 21,2% số người được hỏi cho biết sẽ trao
đổi ngay sau khi nhận được thông tin, còn 49,4% suy nghĩ kĩ rồi mới trao đổi và
27,7% tùy theo vấn đề mà quyết định (Bảng 1). Như vậy, có tới hơn 3/4 số người được hỏi bộc lộ sự thận trọng trong việc này. Điều này được giải thích rằng: “Bây giờ dân trí mở mang hơn, thông
tin lại có nhiều nên phải cân nhắc, nói gì cũng nghĩ kĩ rồi mới nói. Nhất là khi mình trao đổi với người của chính quyền và đoàn thể về những
cái có liên quan đến quyền lợi của dân tộc mình, mình không thể nói bừa được. Đấy cũng cũng là trách nhiệm
công dân nữa”
(nam 61 tuổi, người
Bảng 2: Cách ứng xử khi không đồng ý với kết quả giải quyết (hay cách giải quyết)
của cán bộ xã/thị trấn (hoặc Ủy ban xã/thị trấn) về một vấn đề cụ thể (%)
|
|
Có
sử dụng Internet
|
Không
sử dụng Internet
|
Chung
|
1. Thảo luận, tranh luận cùng cán bộ để tìm ra cái đúng
|
61,5
|
52,2
|
55,7
|
2. Tập hợp mọi người xung quanh để cùng giải
quyết
|
22,0
|
19,1
|
20,2
|
3. Phản đối gay gắt bằng lời nói
|
10,6
|
7,5
|
8,7
|
4. Đưa vấn đề ra xin ý kiến ở cuộc họp thôn/bản
|
58,5
|
52,8
|
55,0
|
5. Viết đơn khiếu nại, tố cáo
|
16,3
|
9,6
|
12,1
|
6. Dùng sức mạnh/vũ lực để giải quyết
|
1,0
|
0,4
|
0,6
|
7. Không phản ứng gì, chấp nhận tuân theo
|
15,3
|
29,1
|
23,8
|
Thái, khối 4, thị trấn Tân
Lạc, Quỳ Châu, Nghệ An). Khi
xem xét việc này trong mối tương quan với việc sử dụng Internet, có thể thấy những người có sử dụng Internet chính là những
người cân
nhắc thận trọng hơn cả trong việc trao đổi thông tin (xem Bảng 1).
Khi không đồng ý với cách giải quyết
của cán bộ xã/thị trấn trong một vấn đề cụ thể (câu hỏi cho phép chọn nhiều đáp án), 55,7% người được hỏi chọn giải
pháp thảo luận, tranh luận để tìm ra cái đúng, 55,0% chọn giải pháp đưa vấn đề
ra xin ý kiến ở cuộc họp thôn/bản/buôn/ấp, 20,2% chọn giải pháp tập hợp mọi người
xung quanh để cùng giải quyết, 12,1% chọn giải pháp viết đơn tố cáo, 8,7% chọn
giải pháp phản đối gay gắt bằng lời nói và 0,6% chọn giải pháp dùng vũ lực (Bảng 2). Khi không đồng ý với cách giải quyết của
cán bộ ở thôn/bản/buôn/ấp, sự lựa chọn của người dân cũng gần tương tự. Trong đó, những người sử dụng internet tỏ ra sẵn sàng
hơn với tất cả các giải pháp, trừ giải pháp bất hợp pháp là dùng vũ lực.
Để các cấp chính quyền biết đến ý kiến của mình, các cách thức chính của người dân là đề xuất thông qua các kênh như cán bộ thôn/bản/buôn/ấp trên địa
bàn (82%), người có uy tín trong cộng đồng sinh sống (48,4%), các tổ chức chính trị - xã hội như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội
cựu chiến binh… (42,5%). Các cách thức được người dân sử dụng ít hơn là: đề xuất thông qua các cuộc bầu cử địa
phương bằng phiếu (29,7%), đề đạt trực tiếp tại các cơ quan công quyền (23,1%), đề đạt bằng văn bản (đơn, thư) lên các cấp chính quyền
theo trình tự (16,8%). Chỉ một số rất ít người lựa chọn cách thức đề xuất ý kiến thông qua các phương tiện công nghệ thông tin (3,3%), báo chí và đài truyền hình/thanh địa phương (1,5%), hay văn bản (đơn, thư) vượt cấp (1,2%). Có thể thấy,
cách thức đề xuất ý kiến của người dân nhìn chung khá phong phú. Đặc biệt, những người sử dụng
internet - một lần nữa - có sự sẵn sàng đáng kể hơn những người khác trong việc
lựa chọn các cách thức đa dạng để phản ánh những ý kiến của mình tới các cấp
chính quyền (xem Bảng 3).
Có thể nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa, những người
dân vùng DTTS mà chúng tôi tiếp cận bộc lộ khá rõ sự ý thức về quyền và trách
nhiệm của mình trong việc cân nhắc trước khi trao đổi thông tin, trong việc ứng
xử khi không đồng ý với kết quả giải
quyết (hay cách giải quyết) của cán bộ chính quyền về một vấn đề cụ thể, và trong việc lựa
chọn những cách phản ánh để chính quyền các cấp biết đến ý kiến của mình. Trong
đó, những người sử dụng internet là những người “đáp ứng mạnh hơn” với mọi
phương án được đưa
Bảng 3: Cách thức để các cấp chính quyền biết đến ý kiến của
mình (%)
|
|
Có sử dụng Internet
|
Không sử dụng
Internet
|
Chung
|
1. Đề xuất ý kiến thông qua
người có uy tín trong cộng đồng sinh sống
|
46,8
|
49,5
|
48,4
|
2. Đề xuất ý kiến thông qua
cán bộ thôn/bản/buôn/ấp trên địa bàn
|
79,8
|
83,4
|
82,0
|
3. Đề xuất
ý kiến thông qua các tổ chức chính trị - xã hội (đoàn thanh niên, hội phụ nữ,
hội cựu chiến binh…)
|
44,6
|
41,2
|
42,5
|
4. Đề xuất ý kiến thông qua
báo chí và đài truyền hình/thanh địa phương
|
2,5
|
0,9
|
1,5
|
5. Đề xuất ý kiến thông qua
các phương tiện công nghệ thông tin, internet (facebook, zalo…)
|
8,0
|
0,3
|
3,3
|
6. Thông qua các cuộc bầu cử địa phương bằng các lá phiếu
|
34,1
|
26,9
|
29,7
|
7. Đề đạt trực tiếp tại các
cơ quan công quyền
|
26,2
|
21,3
|
23,1
|
8. Bằng văn bản (đơn, thư)
lên các cấp chính quyền theo trình tự
|
23,3
|
12,8
|
16,8
|
9. Bằng văn bản (đơn, thư) vượt
cấp
|
1,2
|
1,3
|
1,2
|
ra,
nói cách khác họ kiên quyết hơn rõ rệt
trong việc bảo vệ những lợi ích mà họ xem là chính đáng của bản thân và của những
người khác.
Như vậy, toàn cầu hóa đang thực sự trở thành yếu tố quan trọng chi phối DLXH vùng DTTS Việt Nam. Trong bức tranh chung khá khả quan, như kết quả khảo sát đã chỉ ra, nổi bật lên là sự tự tin và quyết đoán của những người có mối gắn kết với
internet. Theo
nghiên cứu của D. Miller và D. Slater, vấn đề không chỉ nằm ở chỗ Internet đã mở rộng khái niệm của họ về sự dân chủ; nó còn nằm ở chỗ những trải nghiệm về dân chủ trên không gian mạng đã thúc đẩy
ở họ niềm mong muốn tìm kiếm điều đó trong không gian hiện thực. Đây là một ví
dụ nữa cho thấy không gian Internet đã góp phần tạo
nên không gian hiện thực ra sao.
Kết luận
Mặc dù, nói như N.L. Jamieson và cộng sự (1998), không có câu chuyện hoang đường rằng các DTTS thì nằm tĩnh tại trong lịch sử
và không tương tác với bên ngoài, toàn cầu hóa vẫn là bối cảnh rất quan trọng cho những biến đổi hết sức đa dạng và
nhanh chóng ở vùng DTTS của Việt Nam những thập niên qua. Toàn cầu hóa, theo cách của mình, đã tác động đến DLXH ở vùng đất này với mức độ rất đáng kể. Nhờ bước tiến vượt bậc của công nghệ thông tin, sự tiếp cận với thế giới
rộng lớn bên ngoài đã làm thay đổi nhiều thực hành liên quan đến DLXH của những
người dân nơi đâyq
Tài liệu tham khảo
1.
Baker,
C. (2008), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, London.
2.
Cantril,
H. (1966), The Pattern of Human Concerns, Rutgers University Press, New Brunswick.
3.
Croteau,
D., Hoynes, W. (2003), Media Society:
Industries, Images and Audiences, Pine Forge Press, Thousand Oakes, Calif.
4.
Jamieson,
N.L., Le, T.C., Rambo, T.A. (1998), “The Development Crisis in Vietnam’s
Mountains”, East-West Centre Special
Report, Number 6. Hawaii.
5.
Landow,
G. (2005), “Hypertext and Critical Theory”, in: D. Trend (ed.), Reading Digital Culture, Blackwell, Oxford.
6.
Miller, D., Slater, D. (2001), The Internet: An Ethnographic Approach, Berg Publishers, London.
7. Poster, M.
(1997), “Cyberdemocracy: The
Internet and the Public Sphere”, in: D. Poster (ed.), Internet Culture, Routledge,
London.
8.
Putnam,
R.D. (1995), “Bowling Alone: America’s Declining Social Capital”, Journal of Democracy, 6 (1): 65-78.
9.
Shields, R. (ed.,
1996), Cultures of the Internet: Virtual
Spaces, Real Histories, Living Bodies, SAGE, London.
10. Trend, D. (ed., 2005), Reading Digital Culture, Blackwell, Oxford.
Phan Tân
Lê Thị Thùy Ly - Viện Nghiên cứu Văn hóa