Bài đăng nổi bật

Việt Nam nhìn từ Chủ thuyết phát triển

Thứ Năm, 18 tháng 6, 2015

Nghiên cứu Dư luận xã hội ở Hoa Kỳ - gợi mở cho Việt Nam

Phan Tân

(Bài đã đăng ở Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, ISSN: 0866-8647, Số 12(375), tr. 3-13, 2014)



Trong khuôn khổ hợp tác, trao đổi nghiên cứu tại trường Đại học George Washington về lĩnh vực dư luận xã hội, tác giả trân trọng giới thiệu một số kết quả bước đầu về nghiên cứu dư luận xã hội ở Hoa Kỳ, đưa ra một vài gợi mở cho Việt Nam hiện nay để cùng bạn đọc trao đổi.

I. Nghiên cứu dư luận trong đời sống xã hội ở Hòa Kỳ
1. Với người Mỹ, khi nói đến nghiên cứu dư luận xã hội là nói đến các cuộc thăm dò dư luận. "Nước Mỹ ngày nay (đã và đang-PT) tràn ngập các cuộc thăm dò dư luận xã hội" (Asher, 2012: 1; Berinsky, 2012: 2).
Ngay từ năm 1952, trong dịp kỷ niệm 15 năm ra đời tạp chí Public Opinion Quarterly, nhà khoa học chính trị Philip Converse đã đưa ra nhận định "thăm dò ý kiến là dư luận xã hội" (opinion polls were public opinion). Quan điểm này, theo Adam Berinsky, "hoàn toàn được chia sẻ bởi các nhà khoa học gần đây về dư luận xã hội". Thực vậy, theo ông "khi các nhà khoa học nói về dư luận xã hội, họ luôn nghĩ đến các kết quả thăm dò" (Berinsky, 2012: 2).
Trên mọi phương diện, bất kỳ điều gì người Mỹ quan tâm thì vấn đề đó đều được các trung tâm nghiên cứu dư luận tiến hành thăm dò và đưa ra câu trả lời, đặc biệt là phương diện chính trị. Đối với người dân Mỹ, những câu hỏi thường xuyên được đưa ra và tìm kiếm câu trả lời là những vấn đề liên quan đến hoạt động của Chính phủ. Ví dụ như: Ai có khả năng chiến thắng và trở thành tổng thống trong ngày bầu cử? Đảng Dân chủ hay Cộng hòa sẽ nắm đa số tại thượng viện/hạ viện? Tổng thống Obama được bao nhiêu phần trăm cử tri ủng hộ trong thời gian cầm quyền với các chính sách trị vì của ông? Bao nhiêu phần trăm đảng viên đảng Cộng hòa và bao nhiêu phần trăm đảng viên đảng Dân chủ ủng hộ chính sách của tổng thống được trình bày trước quốc hội cho năm tới? Nước Mỹ có cần thiết phải triển khai quân tham chiến ở Syria hay không?..., tất cả những câu hỏi đó được trả lời thường xuyên bằng các con số từ kết quả thăm dò ý kiến công chúng trên các báo cáo (Bardes and Oldendick, 2007; Asher, 2012).
Cùng với đó, các doanh nhân, chính khách cũng quan tâm đến các cuộc thăm dò để đánh giá triển vọng cử tri sẽ bầu cho họ trước khi quyết định có tham gia hay không cuộc đua vào vị trí nào đó. Nhiều người đưa ra quyết định nghề nghiệp và các hoạt động kinh tế sau khi căn cứ vào kết quả các cuộc thăm dò.
Bên cạnh những cuộc thăm dò mang tính chính trị, những cuộc thăm dò về việc triển khai thực hiện các chính sách kinh tế, tổ chức lại công tác bảo vệ sức khỏe, vấn đề nhập cư, những vấn đề về chính sách công cộng như nạo phá thai, tổ chức lại giáo dục, thâm hụt chi tiêu, môi trường,… cũng được người Mỹ quan tâm; Hoặc đơn giản chỉ là người Mỹ thích lựa chọn loại đồ uống có cồn nào? Ai sẽ chiến thắng trong chương trình American Ido?...
Không chỉ tổ chức thực hiện các cuộc thăm dò dư luận trong nước, người Mỹ còn mở rộng thực hiện các cuộc thăm dò trên khắp thế giới. Những cuộc thăm dò ngoài nước giúp người Mỹ biết được quan điểm của nhân dân các nước trên thế giới đối với nước Mỹ và các hoạt động bên ngoài của nước này, ví dụ như tìm hiểu sự quan tâm của họ đối với văn hóa đại chúng và chính sách ngoại giao của Mỹ. Khởi nguồn, các cuộc thăm dò được thực hiện chủ yếu ở các quốc gia khu vực Bắc Mỹ và châu Âu (EU), sau mở rộng ra các quốc gia ở Mỹ Latinh, Trung Đông, châu Á và châu Phi.
Với các kết quả thăm dò về việc tham chiến của Mỹ tại Iraq những năm 2002 và 2003, nhiều người Mỹ đã ngạc nhiên bởi thái độ phản đối của người dân ở các nước đồng minh truyền thống như Đức, Pháp. Hay các cuộc điều tra đã triển khai ở Lebanon năm 2006, người dân Mỹ được biết rằng đa số người dân nước này không tin Hoa Kỳ đóng vai trò là người trung gian hòa giải một cách trung thực trong cuộc xung đột giữa Hezbollah và Israel...
Berinsky cho rằng, sở dĩ mọi người quan tâm đến dư luận "vì nó có ảnh hưởng mạnh nhất trong đời sống hàng ngày của tất cả mọi người" (Berinsky, 2012). Trước đó, trong công trình của mình Bogardus đã lưu ý, dư luận "nó xây dựng và phá hủy thanh danh, tổ chức duy trì xã hội hạnh phúc, đưa và và hủy bỏ các điều luật, xây dựng và hủy hoại/bào mòn xã hội, các chuẩn mực đạo đức, tiếp thêm sức mạnh hoặc làm mất sinh khí tinh thần cộng đồng" (Bogardus, 1951: 1).
2. Không phải là quốc gia khởi phát về nghiên cứu dư luận xã hội nhưng trong suốt thế kỷ XX cho đến nay, Hoa kỳ được xem là một trong những quốc gia hàng đầu về các nghiên cứu này, cả lý thuyết và thực tiễn. Có nhiều tổ chức nghiên cứu dư luận nổi tiếng mà chúng ta từng được nghe như: Hội đồng quốc gia về Thăm dò dư luận (National Council on Public Polls - NCPP), Hiệp hội Nghiên cứu dư luận Hoa Kỳ (American Association for Public Opinion Research - AAPOR); Hiệp hội Nghiên cứu dư luận thế giới (World Association for Public Opinion Research - WAPOR); Chương trình về Quan điểm chính sách quốc tế (Program on International Policy Attitudes - PIPA); Trung tâm nghiên cứu dư luận Roper (Roper Center for Public Opinion Research - ROPER); Trung tâm Nghiên cứu ý kiến quốc gia (National Opinion for Research Center - NORC),... Đặc biệt, Gullup - tổ chức tư nhân nghiên cứu dư luận nổi tiếng của Mỹ đã được biết đến trên toàn thế giới.
Gallup (được George Gallup sáng lập năm 1935) là cơ quan thường xuyên tiến hành các cuộc điều tra thăm dò dư luận xã hội trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trước những sự kiện chính trị lớn của nước Mỹ như bầu cử tổng thống, tranh cử vào Thượng viện, Hạ viện của các đảng. Bên cạnh đó, hàng tuần Gallup cũng đều tiến hành các cuộc thăm dò dư luận xã hội toàn quốc về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị khác nhau. Sau Chiến tranh thế giới thứ 2 , Gallup bắt đầu tiến hành những điều tra dư luận xã hội bên ngoài nước Mỹ. Tất cả các kết quả từ các cuộc điều tra này đều được các tổ chức truyền thông đã ký hợp đồng với Gallup công bố.
3. Cho dù châu Âu là nơi khởi nguồn cho nghiên cứu dư luận, nhưng các công trình và các nhà nghiên cứu gạo cội về dư luận lại chính là ở Hoa Kỳ. Một số tác giả và công trình nổi tiếng về dư luận được nhắc đến như: Public Opinion của Walter Lippmann, xuất bản từ năm 1922 đến nay (1997) đã tái bản đến lần thứ 12; A theory of public opinion của Francis Graham Wilson, xuất bản lần đầu 1962, đến nay (2013) đã 14 lần tái bản; Polling and the Public: What Every Citizen Should Know của  Herbert Asher, xuất bản năm 1992 đã được tái bản đến lần thứ tám (2012)... Gần đây nhất là bộ công trình "Định hướng mới về nền chính trị Mỹ" (New Directions in American Politics) do sự bảo trợ triển khai của Chính phủ đã cho xuất bản cuốn Định hướng mới trong Dư luận xã hội (New Directions in Public Opinion, 2012), do Adam J. Berinsky và cộng sự chủ biên. Cuốn sách được đánh giá là công trình chuẩn mực về định hướng dư luận trong thời điểm hiện nay.
Tạp chí nghiên cứu dư luận hàng đầu có tên  Public Opinion Quarterly của AAPOR đã tồn tại và phát triển được 78 năm (tạp chí ra số đầu năm 1937, mỗi năm xuất bản 4 số chính, 4 số chuyên đề, đến nay đã xuất bản đến số 78 Volume 78/ Number 2/ Summer 2014).
Các công trình nghiên cứu dư luận xã hội đã thể hiện khá toàn diện ở nhiều lĩnh vực:
- Nghiên cứu một số khía cạnh quan trọng về vị trí lịch sử và hiện tại của ý tưởng, hoặc khái niệm về dư luận xã hội. Cung cấp sự phê bình một cách nhẫn nại và bác bỏ sự phi lý về những hành vi bốc đồng, trong khi khẳng định ý nghĩa lý thuyết và lịch sử của ý tưởng về dư luận xã hội theo quy tắc phổ biến (Wilson, 1962).
- Dư luận như là sự thể hiện ý chí chung và như một quá trình giao tiếp. Quá trình này như là chủ đề về Đối thoại dân chủ. Vai trò chính đáng của công chúng trong chính phủ dân chủ, trong lý thuyết và thực tiễn, được lịch sử gọi "Vox Populu, Vox Dei" có phải tiếng nói của người dân là tiếng nói của Chúa trời hoặc ít nhất là tiếng nói của lý trí và sự thông thái? (Brooker and Todd, 2006).
- Giới thiệu các trường phái nghiên cứu khác nhau về tri thức truyền thống, căn cứ trên nền tảng chung, trên sự hấp dẫn nhưng khó nắm bắt của dư luận; miêu tả bằng phạm vi nghiên cứu một cách rộng rãi và cẩn trọng các tài liệu để nói rằng "dư luận xã hội" là thuật ngữ đa nghĩa (Glasser and Salmon, 1995).
- Giới thiệu các nghiên cứu dư luận từ nhiều ngành khác nhau; tuy nhiên, cái cơ bản là khoa học chính trị và xã hội học nhưng nó đã vay mượn rất nhiều từ tâm lý học xã hội và kiến thức sơ đẳng của sinh học, nhân chủng học và kinh tế học (Hennessy, 1985).
- Giúp người đọc trở thành những người tiêu dùng tốt hơn về thăm dò trên những vấn đề cộng đồng (Asher, 2012)
- Xây dựng dư luận theo hai chiều khác nhau: 1) dư luận đã được xây dựng thông qua công nghệ thăm dò của phương tiện truyền thông mới với báo cáo và thăm dò rõ ràng và có liên quan với việc thể hiện dư luận như thế nào; 2) vai trò đã thể hiện bởi truyền thông và giới chính trị tinh hoa trong hình thành dư luận (Lewis, 2001).
- Giới thiệu một tài khoản về vai trò của dư luận trong chính trị dân chủ của Hoa Kỳ (Erikson and Tedin, 2005).
- Cung cấp thông tin và mô tả số liệu khảo sát đã được lựa chọn như thế nào hoặc chứng minh các cách khác nhau trong số liệu dư luận đã được sử dụng; và dư luận trong hệ thống dân chủ, và làm thế nào để nó chuyển vào chính sách công (Bardes and Oldendick, 2007).
- Giúp những người quan tâm, có kế hoạch và hoàn thành một cuộc thăm dò chuyên nghiệp, và trở thành một khách hàng thông minh về các cuộc thăm dò (Lake with Harper, 1987).
- Mở rộng sự nghe ngóng về chiều cạnh nghiên cứu dư luận bằng việc cung cấp một sự khái quát mạch lạc có thể đạt được về trạng thái hiện tại của phạm vi định hướng dư luận (Berinsky and others, 2012),v.v...

II. Quan điểm về dư luận xã hội ở Hoa Kỳ
1. Những tranh luận xung quanh định nghĩa về thuật ngữ dư luận
Dư luận xã hội được các nhà khoa học đánh giá là "một trong những lĩnh vực đa dạng, hay thay đổi nhất trong khoa học chính trị" (Berinsky, 2012: 1). Hiện nay, có nhiều định nghĩa về khái niệm dư luận xã hội được trình bày, sử dụng dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau cùng tồn tại. Mặc dù không thống nhất, nhưng do nó có thể đáp ứng một số mục đích có ích cùng mang lại trong mối quan hệ của họ cho mỗi khái[T1]  niệm khác nhau về dư luận xã hội.
Xem xét từ phương diện lý thuyết thì vấn đề ở đây chính là việc kết hợp của hai thuật ngữ với nhau: opinion (ý kiến) và public (công chúng). Làm thể nào để một từ gọi là public có để được hiểu là sự hình thành thú vị cho từ opinion.
Trong lịch sử, đã từng có Hội nghị bàn tròn về thống kê chính trị tại Chicago (12/8/1924), tại đây vấn đề dư luận đã được đưa ra thảo luận nhưng không tìm được sự đồng thuận. Một số thành viên hội nghị cho là không có cái gì như dư luận xã hội. Một số khác tin rằng nó tồn tại nhưng nghi ngờ khả năng của nó để định nghĩa với đầy đủ độ chính xác cho mục đích khoa học. Một số khác lại lạc quan hơn hoặc có thể cả tin hơn cho rằng thuật ngữ này là có thể định nghĩa nhưng các ý tưởng liên quan khác nhau kiểu hạng/loại của định nghĩa phải được lựa chọn. Để dung hòa những quan điểm đầy sự khác biệt này, hội nghị đưa ra quyết định: trước hết cần phải xem xét nguồn gốc tự nhiên của từ opinion (ý kiến) trong tổng thể cái chung và hy vọng rằng một sự hiểu biết chung về ý nghĩa của cụm từ dư luận xã hội (public opinion) sẽ xuất hiện rõ nét hơn. Cuối cùng định nghĩa về ý kiến được Hội nghị thống nhất thu hẹp ở 3 điểm: (1) ý kiến (opinion) không cần phải là kết quả của một quá trình có lý, (2) ý kiến không bao gồm cá nhân biết về lựa chọn, và (3) ý kiến phải đủ rõ ràng hoặc định nghĩa tạo ra được một khuynh hướng để hành động theo nó trong tình huống có lợi. Tuy nhiên, với câu hỏi, khi nào thì dư luận xã hội? Hội nghị không thể đi đến kết luận cuối cùng. Về cơ bản, sự không thống nhất được thể hiện ở mấy điểm sau: thứ nhất, có hay không và cần thiết phải có một dư luận xã hội duy nhất; có hay không có thể có một số dư luận xã hội theo một câu hỏi đưa ra, thứ hai, có hay không ý kiến là công chúng bởi vấn đề khách thể, đối tượng mà nó liên quan hay là tính hạng/loại những con người giữ nó, và thứ ba, bộ phận/nhiệm vụ nào của công chúng phải tán thành ý kiến để đánh giá nó (làm cho nó) và thứ tư, công chúng phải có sự phục tùng bởi cả những người không tán thành (Binkley, 1928: 389-396).
Trong khi còn khó khăn để đi đến đồng thuận cho một định nghĩa cá biệt về dư luận xã hội thì Valdimer O. Key đưa ra một quan điểm làm việc về dư luận xã hội - và đã được khá nhiều nhà khoa học hiện nay đánh giá cao trong các công trình nghiên cứu về dư luận hiện đại (Berinsky, 2012). Theo Valdimer O. Key, dư luận là "những ý kiến này được nắm giữ bởi những con người cá nhân, điều mà các chính phủ tìm thấy và cần sự lưu ý thận trọng, khôn ngoan” (Those opinions held by private persons which governments find it prudent to heed), (Bardes and Oldendick, 2007: 2). Định nghĩa của Valdimer O. Key là sự mở rộng có thể khi cho rằng dư luận xã hội là thuộc tính của các cá nhân, nhưng giành được quyền lực của nó trong tầm ảnh hưởng của công chúng. Hơn nữa, các ý kiến này là sự kết tinh ý kiến của các công dân được các nhà báo, các chính khách thông minh nắm lấy để thỉnh thoảng dẫn dắt chính phủ.
Tiếp tục đi tìm một định nghĩa hợp lý khác, Bardes và Oldendick sau khi tổng hợp một hệ các định nghĩa về dư luận của Valdimer O. Key (1967: 4), Monroe (1975: 6), Simon (1974: 7), Hennessy (1981: 4), Erikson and Tedin (2001: 7), Wise (1974: 168), Noelle-Neumann (1984: 62-63), và Weissberg (1976: 9)... cho rằng, các định nghĩa đều có một yếu tố chung, mỗi một sự khác biệt là phản ánh những điểm khác nhau về quan điểm, phạm vi, về tầm quan trọng trong nghiên cứu hiện tượng này. Từ đó hai ông đã đưa ra định nghĩa: "Dư luận xã hội là tập hợp của những quan điểm của cá nhân trưởng thành vào những vấn đề cộng đồng/công chúng quan tâm" (Public opinion is the aggregate of the views of individual adults on matters of public interest) (Bardes and Oldendick, 2007: 5). Yếu tố thứ nhất của định nghĩa này nhấn mạnh "tập hợp của những quan điểm của cá nhân trưởng thành" là nguồn gốc của sự tranh luận trong sự phát triển sớm nghiên cứu dư luận ở Hoa Kỳ, nó khác với ý kiến cá nhân. Yếu tố thứ hai, ý nghĩa của cụm "của cá nhân trưởng thành" xuất phát từ trọng tâm mà chúng ta nhằm vào là vai trò của dư luận trong quá trình chính trị; căn cứ vào các quyền và nghĩa vụ của các cá nhân từ 18 tuổi trở lên đối với xã hội. Yếu tố cuối cùng, "những vấn đề cộng đồng quan tâm", ở đây là chấp nhận một cách tiếp cận cơ bản cực rộng - tất cả những vấn đề cộng đồng quan tâm.
Trên thực tế, khi xem xét các quan điểm, các cách tiếp cận khác nhau trong định nghĩa khái niệm dư luận xã hội thì thấy rằng, mỗi định nghĩa dù được đưa ra trước hay sau đó cũng đều có sự hợp lý nhất định và thật khó để đánh giá định nghĩa nào hợp lý hơn. Do đó, cũng như Bardes và Oldendick, Hennessy sau khi khảo cứu các quan điểm về dư luận của Jean Jaccques Rousseau (1712-1778), James Madison (1751-1836), MacKinnon (1828), Lawrence Lowell (1913), Walter Lippmann (1922), Leonard W. Doob (1948), David Truman (1951), Arthur Kornhauser (1950),v.v... đã "dự kiến" một định nghĩa: Dư luận xã hội là phức hợp biểu thị về ý thích bởi một số ý nghĩa của con người lên một vấn đề quan trọng chung. (Public opinion is the complex of prefences expressed by a signigicant number of persons on an issue of general importance). Ông đã đưa ra 5 yếu tố cho định nghĩa này như: 1) Sự hiện diện của vấn đề, đó là sự nhất trí đồng thuận giữa các học giả về tập hợp dư luận xung quanh vấn đề. 2) Nguồn gốc của công chúng, ở nơi thứ hai phải có một nhóm ghi nhận về những người có liên quan đến vấn đề, đó là công chúng của dư luận. 3) Tính phức tạp về ý thích của công chúng, nó có nghĩa tất cả tưởng tượng hoặc đo lường ý kiến cá nhân được nắm giữ bởi công chúng liên quan trên tất cả các dự định về vấn đề bao trùm. 4) Sự biểu thị ý kiến, của những quan điểm khác nhau tập hợp lại xung quanh vấn đề, sự phân chia thiểu số-đa số là trường hợp đặc biệt của việc tạo ra quyết định dân chủ. 5) Số người liên quan, là lực lượng công chúng quan tâm đến vấn đề (Hennessy, 1985: 8-14).
Bên cạnh định nghĩa về thuật ngữ public opinion thì các thuật ngữ khác liên quan đến dư luận xã hội cũng được các nhà khoa học phân định chi tiết, như: ý kiến (opinions), quan điểm - thái độ (attitutes), ý kiến đa số (majority opinion), ý kiến thiểu số (minority opinion), niềm tin (beliefs), giá trị (values)... công chúng (publics), công chúng toàn thể (general public), nhóm (groups), nhóm đồn nhảm (gossiping group)...
2. Những tranh luận về phương pháp
Trong các công trình nghiên cứu dư luận của các nhà khoa học Mỹ, cách trình bày phương pháp luận không cho thấy sự riêng biệt, rõ ràng; họ phần nhiều đề cập đến phương pháp cụ thể để nhằm triển khai thực hiện các cuộc thăm dò, như: phỏng vấn trực tiếp (face-to-face or door-to-door), Phỏng vấn qua điện thoại (telephone interviews), Khảo sát qua thư tín (mail surveys), Khảo sát qua Internet (internet surveys), Thăm dò sau bầu cử (exit polls)... Bởi vậy, như đề cập ở trên, ngay từ năm 1952, Philip Converse đã đưa ra kết luận rằng "thăm dò ý kiến là dư luận xã hội". Và  "quan điểm này hoàn toàn được chia sẻ bởi các nhà khoa học gần đây về dư luận xã hội" (Berinsky, 2012: 2). Điều này không phải bây giờ mới được thừa nhận, mà trước đó, trong công trình nổi tiếng của mình, Wilson cũng thừa nhận rằng "phần lớn mối quan tâm hiện nay về dư luận là phát triển các phương pháp và kỹ thuật" (Willson, 1962: 73).
Thăm dò dư luận được xem là công nghiệp tăng trưởng ở Hoa Kỳ - điều này là không thể phủ nhận. Hầu hết các cuộc điều tra đã trở nên quen thuộc với người Mỹ. Kết quả của chúng được thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng chủ yếu. Ví dụ, mạng lưới truyền hình thường tài trợ cho các cuộc điều tra thăm dò với các tổ chức truyền thông như: CBS News với New York Times, ABC News với Washington Post, và NBC News với Wall Street Journal, các hình thức hợp tác tồn tại giữa báo in và phương tiện điện tử với sự tham gia của các tổ chức điều tra thăm dò như: Fox NewsOpinion Dynamics, USA TodayGallup Orgnization, CNNOpinion Research Corporation... Điều đặc biệt là các cuộc điều tra thăm dò đều được các tổ chức truyền thông này tài trợ và nó trở thành một phần không thể tách rời đối với báo in hoặc loại bài tường thuật trên báo điện tử, nó phần nào là lối thoát cho sản phẩm truyền thông. Tương tự, một số tạp chí tin tức cũng thường có sự hợp tác chặt chẽ trong điều tra thông tin cho các bài tường thuật.
Đến nay, các cuộc thăm dò dư luận xã hội ở Mỹ vẫn được tiến hành thông qua phương pháp: Phỏng vấn trực tiếp, Phỏng vấn qua điện thoại, Khảo sát qua thư, Khảo sát qua internet, Phỏng vấn nhóm tập trung,..., trong đó, được sử dụng nhiều nhất là Phỏng vấn qua điện thoại. Tính đa dạng của các phương pháp làm cho nghiên cứu dư luận xã hội thực sự trở thành một khu vực đặc biệt thú vị (quan tâm) của khoa học chính trị, nhưng việc triển khai, sử dụng phương pháp nào còn tùy thuộc nhiều vào kinh phí của cuộc thăm dò.
3. Bối cảnh và những thay đổi phương pháp nghiên cứu dư luận xã hội ở Hoa Kỳ
Những cuộc thăm dò dư luận được xem là hiện đại bắt đầu từ những năm 1930 (trước đây những cuộc điều tra, thăm dò trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được xem là những cuộc thăm dò không giá trị - straw). Hình thức sử dụng thăm dò sớm nhất là phỏng vấn trực tiếp tại nhà. Những người đi phỏng vấn chủ yếu là nữ, bên cạnh việc thực hiện phỏng vấn họ có trách nhiệm lựa chọn người trả lời thông qua phương pháp quota(*). Những người đi phỏng vấn làm việc dưới một giám sát khu vực, nhận tài liệu từ văn phòng trung tâm, phân phối chúng tới người phỏng vấn.
Đầu những năm 1970, công nghiệp hóa sản sinh ra các cuộc điều tra bằng điện thoại, một hình thức rẻ hơn và tiện lợi hơn về lựa chọn số liệu, bắt đầu từ đây là sự gia tăng ồ ạt số các cuộc điều tra ở Mỹ. Tuy nhiên, dần dần mô hình thu thập số liệu này bị đe dọa bởi một số yếu tố: Một là, việc gia tăng sử dụng điện thoại di động trong các cuộc điều tra khảo sát đặt mẫu đại diện vào rủi ro. Hơn một phần tư người Mỹ từ bỏ điện thoại cố định để chuyển sang sử dụng điện thoại di động và số này gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là ở nhóm những người trẻ. Đến tháng 11/2010, hơn một nửa người Mỹ tuổi từ 25 đến 29 sống trong các căn hộ chỉ sử dụng điện thoại di động mà không có điện thoại cố định. Hiện tượng này dẫn đến việc, các cuộc thăm dò loại trừ qua điện thoại cố định bị nhầm phân phối mẫu trên tổng thể công chúng. Hai là, mạng internet được hứa hẹn như một phương pháp thu thập số liệu khá hiệu quả, nhanh chóng. Tuy nhiên, nó cũng gặp phải khó khăn là gần như không thể xác định được không gian người dùng internet để tạo ra bộ khung mẫu đại diện khi thiết kế mẫu.
Việc sử dụng phương pháp thăm dò qua điện thoại được xem là phương pháp tiện lợi, nhanh và ít tốn kém nhất. Tuy nhiên, do sự phát triển quá nhanh, nhiều cuộc thăm dò qua điện thoại đã gây nên nhiều khó xử cho người sử dụng điện thoại, và phần nào có thể xem như là thường xuyên bị làm phiền vì có quá nhiều cuộc điều tra tự do (AAPOR, 2010). Hệ quả là, Chính phủ Mỹ đã phải đưa ra chính sách thu phí điện thoại mà các cuộc gọi sẽ được tính tiền từ khi bắt đầu có chuông để bù vào một phần chi phí cho người trả lời, đồng thời hạn chế bớt những cuộc gọi vô tội vạ, đòi hỏi người nghiên cứu phải có sự cân nhắc trước khi chọn mẫu để phỏng vấn.
Các cuộc thăm dò ở Mỹ (đặc biệt là các cuộc thăm dò liên quan đến lĩnh vực chính trị) thường được tài trợ bởi các tổ chức truyền thông, nhưng nó chỉ mới chiếm tỷ lệ rất nhỏ các cuộc thăm dò. Vì vậy, hình thức Ủy quyền thăm dò (Commissioned Polls) xuất hiện. Chẳng hạn, các công ty có thể thuê một tổ chức thăm dò dư luận đánh giá phản ứng của cộng đồng về sản phẩm của họ. Các kết quả của những cuộc thăm dò này không thể lôi cuốn/thu hút sự chú ý của cộng đồng, nhưng chúng vẫn có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của công dân.
Mặc dù có các tổ chức điều tra uy tín và hệ thống phương pháp thăm dò được xây dựng một cách chặt chẽ như vậy, nhưng ở Mỹ cũng không tránh được hiện tượng gây quỹ dưới chiêu bài khảo sát (FRUGging), bán hàng dưới chiêu bài nghiên cứu (SUGging) và giả điều tra (Pseudopolls) (Asher, Herbert, 2012: 8). Một số nhóm tài trợ khảo sát không quan tâm đo lường dư luận một cách đáng tin cậy và hợp lý mà thay vào đó, họ muốn cạnh tranh một vị trí chắc chắn và thuyết phục tạo chỗ đứng trong cộng đồng. Và kết quả thường là được họ xác định trước với những phương pháp tinh tế, khôn khéo và thường là họ điều tra một lần sau đó lấy kết quả lần đầu làm kết quả cho lần sau để tăng tiền ủng hộ, tài trợ cho thăm dò. Đồng thời, thông qua các thăm dò này, các tổ chức, doanh nghiệp còn lợi dụng quảng cáo hàng hóa của họ thông qua các nội dung thăm dò. Dạng thăm dò này đã bị AAPOR chỉ trích rất mạnh nhằm bảo vệ tính toàn vẹn và danh tiếng của các hãng/tổ chức thăm dò chân chính.
Vấn đề cuối cùng của tranh luận về phương pháp như Hillygus bình luận là,"không có khảo sát hoàn hảo, nhưng có thể đưa ra quyết định rằng số liệu thu thập khảo sát rõ ràng hơn, nó có thể cho người làm chính sách, nhà báo, và công dân bình thường quyết định một cách tin cậy vào bất kỳ đo lường thực sự về ý chí cộng đồng" (Berinsky, 2012: 4).
1. Nhận thức về vai trò của dư luận và các nghiên cứu đã có
Các nhà lãnh đạo ở Việt Nam từ trước cho đến nay ở một mức độ nào đó, ở hình thức văn bản hoặc thông qua những cuộc trao đổi đều khẳng định và đánh giá cao vai trò của dư luận xã hội.
Nghiên cứu dư luận được đề cập ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ XX, đánh dấu bằng việc thành lập Viện Dư luận xã hội trực thuộc Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (Ban Tuyên giáo Trung ương ngày nay), tuy nhiên sự tồn tại của cơ quan này và một số tổ chức nghiên cứu dư luận sau đó vẫn còn ít được người dân biết đến.
Người ta vẫn còn e ngại nhắc đến từ dư luận xã hội, do vậy cái chính danh trong nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội về mặt nhà nước còn nhiều vướng mắc. Cho dù đánh giá cao dư luận hoặc biết sức mạnh của nó nhưng không ít cán bộ công quyền né tránh dư luận xã hội. Cho nên nghiên cứu dư luận xã hội cũng không thực sự đi vào cuộc sống để phát huy hiệu quả thực hiện các chức năng, vai trò của nó bởi về mặt nhà nước chúng ta chưa có định chế thực sự quy định hiệu lực của các kết quả nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội. Việc công khai sử dụng số liệu thăm dò dư luận như thế nào vẫn chưa được thống nhất, và phần nhiều còn ở dạng "mật".
Về phía các nhà khoa học, tính chuyên nghiệp hoặc sự xuất hiện cá nhân nghiên cứu chuyên sâu về dư luận cho đến nay vẫn hết sức hiếm hoi, chưa có nghiên cứu đột phá và cũng chưa có những công trình xứng đáng có tầm cỡ nghiên cứu về nó.
2. Về phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thăm dò dư luận xã hội được triển khai phổ biến ở Việt Nam hiện nay vẫn là Phỏng vấn trực tiếp hoặc phát phiếu - Anket (những phương pháp này ở Mỹ được xem là có chi phí đắt đỏ nhất); đã xuất hiện một số thăm dò đơn giản trên Internet thông qua các trang báo mạng. Có thể nói, ở Việt Nam, thăm dò bằng phỏng vấn điện thoại, điều tra sau bầu cử là chưa phổ biến; khảo sát qua thư cũng hết sức hiếm hoi. Trong khi đó, phỏng vấn qua điện thoại là phương pháp thịnh hành nhất ở Hoa Kỳ, được tiến hành từ những năm 1970 cho đến ngày nay.
3. Những kiến nghị:
- Trước hết, để có cơ sở thuyết phục cho các nghiên cứu ứng dụng về dư luận xã hội ở Việt Nam, cần triển khai các nghiên cứu cơ bản, có hệ thống về lý thuyết dư luận xã hội. Các nghiên cứu cơ bản về lý thuyết phải phù hợp với văn hóa, giá trị truyền thống của Việt Nam.
- Hiện nay kỹ thuật của các phương pháp thăm dò dư luận đã được nghiên cứu, trình bầy trong các công trình của các nhà khoa học về dư luận, rất chi tiết, cụ thể. Có nhiều công trình chỉ chuyên biệt đi sâu nghiên cứu, phân tích các kỹ thuật thăm dò, ví dụ: Polling and the Public: What Every Citizen Should Know, (Asher, 2012); Public Opinion:Measuring the American Mind, (Bardes và Oldendick, 2007); Opinion Polls and the Midea: Reflecting and Shaping Public Opinion (Holtz-Bacha và Stromback 2012); Public Opinion Polling: A handbook for Public Interest and Citizen Advocacy Groups, (Lake với Harper 1987); Methodological Trends and Controversies in the Media's Use of Opinion Polls, (Traugott 2012)... Vì vậy, cần tổ chức dịch thuật các công trình này một cách nghiêm túc để có căn cứ sử dụng lâu dài.
- Cần áp dụng ngay việc tổ chức thăm dò dư luận trước khi ban hành các chính sách và sau thời gian thực hiện chính sách (điều này đã có văn bản của Bộ Chính trị chỉ đạo -KH08/KH -nhưng vẫn chưa được triển khai theo đúng nghĩa). Tiến hành lấy phiếu tín nhiệm thường xuyên về hiệu quả lãnh đạo, điều hành công việc trong nhiệm kỳ của các nhà quản lý các cấp nhưng phải tuân thủ đúng nguyên tắc, kỹ thuật về thăm dò dư luận đã được khẳng định. Ví dụ, hiện nay việc triển khai lấy phiếu tín nhiệm đối với lãnh đạo các cấp theo 3 mức: Tín nhiệm cao, Tín nhiệm, Tín nhiệm thấp là chưa hợp lý. Đối với các quốc gia phát triển, thang đo tín nhiệm khi lấy phiếu thăm dò chỉ có 2 mức: Tín nhiệm và Không tín nhiệm.
- Vấn đề quan trọng là cần phải có một hệ thống luật pháp đầy đủ, mà bộ luật chính yếu, cụ thể là Luật Trưng cầu dân ý. Luật  Trưng cầu dân ý là cơ sở pháp lý nghiên cứu dư luận xã hội; và hơn thế nữa phải khẳng định quyền phúc quyết của toàn dân (toàn thể công dân) trong Hiến pháp với tư cách luật nền tảng chung của hệ thống pháp luật và là Khế ước xã hội công dân.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     AAPOR (2010), American Association for Public Opinion Research, New Considerations for Survey Researchers When Planning and Conductinng RDD Telephone Surveys in the US. With Respondents Reached via Cell phone Numbers, available at http://aapor.org/AM/Template.cfm?Section-Cell_Phone_Task_Force&Template-/CM/ContenDisplay.cfm&ContentID=2818.
2.     Asher, Herbert (2012), Polling and the Public: What Every Citizen Should Know, (Eighth Edition), CQ Press, Washington, DC.
3.     Bardes, Barbara A. and Oldendick, Robert W. (2007), Public Opinion: Measuring the American Mind, (Third Edition) Thomson Wadsworth, USA.
4.     Berinsky, Adam J. and others (2012), New  Directions in Public Opinion (2012), Routledge Taylor & Francis Group.
5.     Binkley, Robert C. (1928), The concept of public opinion in the social sciences, Social Forces, Vol.6, No. 3, pp. 389-396
6.     Blumberg S.J. and J.V. Luke, (2011), Wireless Sbstitution: Early Release of Estimates from the National Health Interview Survey, January-June, 2011, available at http://www.cdc.gov/nchs/data.nhis/earlyreleas/wireless201112.htm.)
7.     Brooker, Russll and Schaefer, Todd (2006), Public Opinion in 21st Century: Let the People Speak, Houghton Mifflin Company. 
8.     Childs, Harwood L. (1940), An Introduction Public Opinion, the Handon Craftsmen, Inc,
9.     Clawson, Rosalee A. and Oxley, Zoe M., (2008), Public Opinion: democratic ideals, democratic practic, CQ Press, Washington DC.
10. Crespi, Irrving (1997), The Public Opinion Process: How the People Speak, (Lawrence Erlbaum Associates, Inc USA,
11. Elert G., (2002), Number of Cell phones in the US, Available at http://hypertexbook.com/
12. -facts/2002/BogusiaGrzywac.shtml.). 
13. Erikson, Robert S. and Tedin, Kent L. (2005), American Public Opinion: its origins, content, and impact, (Seventh Edition), Pearson Education, US.
14. Fishkin, James S. (1997), The Voice of the People: public opinion and democracy,  Yale University,
15. Glynn, Carroll J.  and others (2004), Public Opinion, Westview a Member of the Perseus Books Group,
16. Hennessy, Bernard, (1985), Public Opinion, (Fifth Edition), Brooks/Cole Publishing Company, California.
17. Holcombe A. N., (1925) https://www.brocku.ca/MeadProject/sup/Holcombe_1925.html
18. Holtz-Bacha, Chritina & Stromback, Jesper (2012), Opinion Polls and the Midea: Reflecting and Shaping Public Opinion, Palgrave Macmilan, NY,
19. Hyman, Herbert H., (1957), Toward a Theory of Public Opinion, The Public Opinion Quarterly, Vol. 21, No. 1, pp. 54-60
20. Lippmann, Water (1997), Public Opinion, (12th Edition) 1st Free Press pbks. ed.. New York
21. Lake, Clinda C. with Harper, C. Pat (1987), Public Opinion Polling: A handbook for Public Interest and Citizen Advocacy Groups, Island Press, Washington, DC.
22. Lewis, Justin (2001), Constructing public opinion: how political elites do what they like and why we seem to go along with it, columbia University Press, New York.
23. Palmer, Paul A., (1938), Ferdinand Tonnies's Theory of Public Opinion, The Public Opinion Quarterly, Vol. 2, No. 4, pp. 584-595
24. Steinberg, Charles S. (1958),  The Mass Communicators public relations, public opinion, and mass media, Harper & Brothers Publishers, New York.
25. Splichal, Slavoko (1999), Public Opinion: Developments and Controversies in the Twentieth Century, Rowmen & Littlefield Publishers, Inc, Maryland 20706,
26. Glasser, Theodore L. and Salmon, Charles T. (1995), Public opinion and the communication of consent,  The Guilfor Press, New York,
27. Phan Tân (2014), Nghiên cứu dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tiếp cận phổ quát các hệ giá trị và giá trị cốt lõi, Tạp chí Xã hội học, số 3/2014, Hà Nội.
28. Traugott, Michael (2012), "Methodological Trends and Controversies in the Media's Use of Opinion Polls" In Opinion Polls and the Media reflecting and Shaping Public Opinion, Edited by Christina Holtz-Bacha and Jesper Strombck, First published 2012 by Palgrave Macmillan, NY 10010)
29. Wimmer, Roger D. and Dominick, Joseph R. (2006), Mass Media Research an introduction (eighth deition), Thomson Wadsworth.
30. Wilson, Graham F., (1962) A theory of public opinion, Institute for Philosophical and Historical Studies, INC, Volume Two.




(+)Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số I3.4-2011.09.
(*) Một phương pháp thu thập số liệu bằng lấy mẫu đại diện từ một nhóm. Trái ngược với lấy mẫu ngẫu nhiên, lấy mẫu quota yêu cầu cá nhân tiêu biểu được lựa chọn ra một phân nhóm cụ thể. Ví dụ, một nhà nghiên cứu có thể yêu cầu một mẫu của 100 nữ, hoặc 100 cá nhân trong độ tuổi từ 20-30.






 [T1]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét