Bài đăng nổi bật

Việt Nam nhìn từ Chủ thuyết phát triển

Thứ Năm, 18 tháng 6, 2015

Nghiên cứu dư luận xã hội ở Việt Nam qua tiếp cận phổ quát các hệ giá trị và giá trị cốt lõi

Phan Tân

(Bài đã đăng ở Tạp chí Xã hội học, ISSN: 0866-7659, Số 3(127), tr. 62-68, 2014)


TÓM TẮT
Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm đã được đúc kết bằng một cặp hệ giá trị mang tính mục tiêu cho xã hội hiện đại đó là: độc lập, tự do, hạnh phúc và dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trên cơ sở cặp hệ giá trị đó, mọi hành động của con người, của cộng đồng trong đời sống xã hội, trong xây dựng và phát triển đều được dư luận xã hội đánh giá, phán xét, ủng hộ hoặc phản đối khi soi chiếu vào các giá trị. Nội hàm thể hiện các giá trị đan cài, biện chứng trong nhau, giá trị dân chủ được xem là giá trị cốt lõi trong cặp hệ giá trị và trong thực tiễn giá trị dân chủ đã được hiện thực hóa bằng cơ chế: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra - cơ chế phù hợp với con đường hình thành dư luận xã hội và vai trò, chức năng của dư luận xã hội.

TỪ KHÓA
Dư luận xã hội; Hệ giá trị; Giá trị cốt lõi; Quy chế dân chủ; Mục tiêu phát triển.

Đặt vấn đề
Dư luận xã hội là một cấu trúc tinh thần thực tế. Giá trị xã hội quy định hành động xã hội, do vậy, mỗi hành động xã hội được dư luận xã hội đánh giá, phán xét trên cơ sở giá trị, chuẩn mực từ đó định hướng, hoặc điều chỉnh hành động xã hội theo đúng giá trị đã được xây dựng, hoặc từng bước chuyển biến thay đổi quan điểm về giá trị cho phù hợp với sự phát triển nhận thức xã hội - thời đại.
Hệ giá trị được hiểu là tổng hòa các quan niệm sống của cộng đồng, là hành trang tất nhiên mà mỗi thành viên cộng đồng mang theo trong cuộc sống. Hệ giá trị có ý nghĩa định hướng đối với suy nghĩ, hành động cho mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Không ít các nhà khoa học ở Việt Nam trong nghiên cứu đã tiếp cận giá trị theo các chiều cạnh đạo đức, văn hoá, xã hội, kinh tế... theo góc độ giá trị vật thể, giá trị phi vật thể; giá trị hữu hình, giá trị vô hình... Có nghiên cứu tiếp cận hệ thống các giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam theo thang bậc: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa (Trần Văn Giàu, 2011). Hoặc, có nghiên cứu đề xuất hướng xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời kỳ hiện nay theo nguyên tắc đi từ cái chung đến cái riêng: giá trị chung toàn nhân loại, giá trị toàn cầu, giá trị dân tộc, giá trị gia đình, giá trị bản thân (Phạm Minh Hạc, 2011).
Bên cạnh các nghiên cứu riêng biệt, Hồ Sĩ Quý (2005) đi từ tiếp cận giá trị quan châu Á, trong đặc tính chung của nhân loại đã rút ra một hệ thang bậc giá trị gồm: hiếu học, cần cù, cộng đồng, huyết tộc..., mang nặng dấu ấn Nho giáo trong xu thế biến động của toàn cầu hóa, đặc biệt với riêng Việt Nam ông nhấn mạnh về tính cộng đồng - "một giá trị căn bản trong toàn bộ văn hóa nhân cách Việt Nam" (Hồ Sĩ Quý, 2005, tr.185).
Trên cơ sở tiếp cận cặp hệ giá trị mang tính mục tiêu vốn được định danh, định hướng mang tính phổ quát mà Việt Nam đã và đang hướng đến: độc lập, tự do, hạnh phúc - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chúng tôi hướng nghiên cứu cơ bản của mình về vai trò, chức năng của dư luận xã hội trong việc định hướng xã hội đến những giá trị đích thực!
1- Hệ giá trị và mục tiêu của dân tộc Việt
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, với hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng chục cuộc chiến tranh chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, không ít lần nội chiến, cát cứ, phân tranh... cái ý chí độc lập, tự do, hạnh phúc đã đi vào tiềm thức - tâm thức dân tộc, tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Là người Việt Nam, không ai không tự hào với truyền thống giữ nước của dân tộc; không ai không mong muốn đất nước Việt Nam được hoà bình, ổn định, ngày càng giàu mạnh hơn, có vị thế bình đẳng trên thế giới.
Song song với lịch sử trường kỳ giành và giữ độc lập, sự phát triển của dân tộc, sự phát triển của thời đại, trong xu thế hội nhập từ sơ khai cho đến hiện đại, các giá trị nội tại mang tính mục tiêu cho phát triển như: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh cũng từng bước được phát triển hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn(*).
Mỗi hành vi, mỗi chuyển động xã hội đều được định hình, quy chiếu trong giá trị mong muốn. Hệ giá trị trung tâm bản thể (Độc lập - Tự do - Hạnh phúc) và hệ giá trị phát triển nội tại (Dân giàu - Nước mạnh - Dân chủ - Công bằng - Văn minh) đã trở thành một cặp hệ giá trị, mang cả ý nghĩa tài sản tinh thần và vật chất. Cặp hệ giá trị này đã chi phối toàn bộ hành động xã hội. Cho dù mỗi hiện tượng xã hội, mỗi sự kiện, vấn đề xã hội xảy ra ẩn dấu dưới danh nghĩa gì cũng không vượt ra khỏi tầm quy chiếu phổ quát của cặp hệ giá trị này. Các hành động xã hội, dù là tích cực/tiêu cực, tốt/xấu, phát triển/phản phát triển... sẽ được chính cộng đồng đánh giá, phán xét trên cơ sở cặp hệ giá trị.
Để bảo vệ hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, người Việt đã phải ưu tiên sự đoàn kết, nhất trí là tối thượng mỗi khi có giặc ngoại xâm. Nó trở thành nguồn sức mạnh nội sinh của đất nước mà thành tựu vĩ đại là đã chống lại sự đồng hoá văn hoá, sự thôn tính của người Hán với người Việt (mà những tiểu quốc, nay là những khu tự trị(**) thuộc đất nước Trung Hoa ngày nay đã không làm nổi). Quan trọng hơn nữa là sự bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ - độc lập dân tộc được chứng minh suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đó là: hai lần chiến thắng thoát khỏi ách đô hộ quân Nam Hán (913, 938) của Khúc Hạo và Ngô Quyền, hai lần nhà Lý chiến thắng quân Tống (981, 1075-1077), ba lần nhà Trần đánh bại quân Nguyên - Mông (1258, 1285, 1287-1288), kháng chiến chống nhà Minh (1418-1427) của Lê Lợi, tiếp đến Quang Trung đại thắng quân Thanh (1788-1789), cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đánh dấu bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), và 20 năm kháng chiến chống Mỹ thắng lợi (1954-1975)... là những dấu mốc lớn trong lịch sử  về bảo vệ độc lập - tự do cho dân tộc.
Để phát triển phù hợp với thời đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, bảo đảm quyền con người, quyền dân tộc, hệ giá trị Dân giàu - Nước mạnh - Dân chủ - Công bằng - Văn minh được ghi nhận và luôn luôn được cộng đồng, xã hội mổ xẻ, quảng bá, kiểm tra, giám sát, phản biện. Và không chỉ cộng đồng trong nước mà cả các tổ chức, định chế quốc tế cùng theo dõi, giám sát quá trình thực hành hệ giá trị này.
Khi sự thịnh vượng của quốc gia, quyền được sống, lao động và học tập trong môi trường lành mạnh, văn minh là những mục tiêu tối thượng cần đạt đến, được cả cộng đồng tham gia bảo vệ gìn giữ thì mọi hành vi xã hội, hành động xã hội để bảo vệ giá trị hoặc xâm phạm hệ giá trị đó đều được hoặc bị cộng đồng ngợi ca hoặc lên án, phán xét. Đây chính là sự phức hợp các ý kiến mà công chúng với sự hiểu biết, sự tham gia cộng đồng trách nhiệm nhằm bảo vệ giá trị, lợi ích của cá nhân cộng đồng.
2- Hệ giá trị và giá trị cốt lõi trong định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam
Bàn đến dư luận xã hội (public opinion), cho đến nay đã có hàng trăm định nghĩa đề cập và mỗi định nghĩa đều có tính hợp lý theo góc độ tiếp cận của người nghiên cứu. Qua khảo sát, đánh giá, tích hợp các quan niệm về dư luận xã hội, chúng tôi cho rằng: Dư luận xã hội là phức hợp ý kiến thảo luận, phản tư, đánh giá, kiến nghị, yêu sách, giải pháp của các nhóm xã hội về những vấn đề xã hội xảy ra liên quan đến lợi ích và giá trị quan tâm.
Từ định nghĩa trên, có thể hiểu đầy đủ về dư luận xã hội theo các khía cạnh nội dung sau:
1) Dư luận xã hội là phức hợp các ý kiến, tương tác với nhau qua quá trình thảo luận thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí của các nhóm xã hội. Ý kiến được các cá nhân trao đổi trở thành ý kiến chung, cá nhân trở thành người mang dư luận.
2) Dư luận xã hội có thể chỉ là đánh giá, phán xét hoặc kiến nghị, hoặc đưa ra yêu sách, giải pháp. Khi dư luận chỉ mới đánh giá, phán xét, chưa đưa ra được kiến nghị hoặc yêu sách, giải pháp thì sự kiện của dư luận xã hội chưa hoàn thành.
3) Dư luận xã hội có thể có nhiều  ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau, tạo thành các luồng ý kiến thuận chiều, trái chiều.
4) Dư luận xã hội có thể là ý kiến của đa số hoặc thiểu số. Ý kiến đó được một nhóm công chúng tranh luận và đồng thuận về cơ sở lợi ích hoặc/và giá trị mà họ quan tâm.
5) Chỉ có những vấn đề, sự kiện, hiện tượng xã hội liên quan đến lợi ích quan tâm của nhiều người mới có khả năng tạo ra dư luận xã hội (lợi ích là cơ sở để xuất hiện các tranh luận).
6) Giá trị và chuẩn mực là căn cứ mà dư luận hướng đến.
Vậy, giá trị mà dư luận xã hội thảo luận, phản tư, đánh giá, kiến nghị, yêu sách, giải pháp trong cặp hệ giá trị của dân tộc Việt Nam được thể hiện như thế nào?
Trong thực hành, thực tiễn đời sống xã hội, các hệ giá trị trên đan cài, biện chứng trong nhau (thể hiện nội hàm lẫn nhau). Ví như, có độc lập thì mới có tự do dân tộc; dân chủ gắn liền với dân quyền tự do, đoàn kết, công bằng, bình đẳng xã hội; không thể có công bằng mà không có dân chủ; không thể có văn minh mà không có dân chủ; không thể có giàu - mạnh bền vững mà thiếu dân chủ; có công bằng mới có hạnh phúc, mới đạt được văn minh,v.v... Hạnh phúc là con người được thưởng thức và giữ gìn cho bền vững tất cả những gì tạo ra sự thoã mãn. Tuy nhiên, khi chưa có tự do theo mong muốn thì chưa thể có hạnh phúc. Lịch sử loài người, chưa có bất kỳ cá nhân nào thực hiện được tất cả các nhu cầu ham muốn kể cả các bậc quân vương. Đặc biệt, cái mong muốn được nói lên cái ham muốn của mình hoặc nói lên cái không bằng lòng của mình đối với các sự kiện, hiện tượng xã hội bức xúc cũng bị hạn chế. Người cầm quyền trong một giới hạn hợp lý thường là hạn chế, ngăn chặn việc sử dụng quyền tự do ngôn luận, bởi tự do ngôn luận về cơ bản là quyền phê phán tình trạng bất công và quyền đòi hỏi công bằng, dân chủ thực sự. Do vậy, khi không đạt được năng lực ham muốn, khi bị kìm chế nhu cầu hưởng thụ hoặc bị ai đó tước đoạt cái phần nhu cầu/lợi ích của mình "đáng" được hưởng thì cá nhân hoặc nhóm có ý kiến phản ứng là không tránh khỏi. Văn minh là mục tiêu nhằm tạo dựng một môi trường tốt nhất cho phát triển con người; dân chủ là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh văn minh tiến bộ của xã hội. Công bằng là một trong những tiêu chí quan trọng bậc nhất để phân định chế độ xã hội, để đánh giá chế độ xã hội độc tài hay dân chủ. Xã hội công bằng là mọi người trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật và có cơ hội như nhau trong tất cả các lĩnh vực - từ chính trị, kinh tế, xã hội, y tế đến giáo dục,v.v... Các chủ thể quan hệ kinh tế đều bình đẳng trong cạnh tranh, trong khai thác tài nguyên, cơ sở hạ tầng và các nguồn lực; các thành phần kinh tế bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bình đẳng trong việc thụ hưởng các thành quả lao động; không phân biệt đối xử. Ví dụ, sự thiếu công bằng trong phân phối sản phẩm ảnh hưởng đến lợi ích xứng đáng được thụ hưởng của cá nhân, nhóm xã hội. Sự thiếu công bằng trong ứng xử giữa người dân và quan chức trong tòa án, trong phân chia nguồn lợi,... sẽ tạo ra phản ứng tiêu cực từ đám đông công chúng. Dư luận xã hội sẽ tập trung chỉ trích, phê phán sự mất công bằng này.
Trên cơ sở sự đan cài biện chứng nội hàm thể hiện giữa các giá trị, chúng tôi nhấn mạnh đến một số giá trị cốt lõi chi phối đến toàn bộ hoạt động xã hội, tác động đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin công chúng. Các giá trị này ở tầm vĩ mô, mang tính định hướng cơ bản cho tinh thần dân tộc, nhưng lại có mặt ở hầu hết những hoạt động vi mô, phục vụ sự phát triển. Mỗi hành động xã hội nhân danh hoặc không nhân danh các giá trị này đều được dư luận xã hội tham gia phán xét, đánh giá rất mạnh mẽ, tác động lên đời sống của các nhóm xã hội.
Độc lập là hệ quả của một quá trình đấu tranh cách mạng; trong truyền thống, độc lập mang ý nghĩa toàn vẹn lãnh thổ, nhưng độc lập là thứ luôn luôn dễ bị mất nhất là trong thời hiện đại. Bởi độc lập dân tộc là một trạng thái "tối ưu” tồn tại trên lý thuyết; trong thời hiện đại khi mà quá trình toàn cầu hoá lan rộng trong phạm vi toàn thế giới, các nước không thể sống biệt lập, tự ý theo đuổi lợi ích quốc gia của mình mà không tính tới lợi ích của nước khác. Do vậy, nhận thức về độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay chỉ có giá trị tương đối. Tuy nhiên, khi đã là giá trị "tương đối" thì việc bảo vệ giá trị sẽ có nhiều cách hiểu, nhiều mức độ nhận thức khác nhau; bởi vậy từ việc hiểu, nhận thức và hành động bảo vệ, phát huy giá trị sẽ phát sinh những mâu thuẫn, những luồng dư luận có thể trái chiều. Ví dụ, biên giới quốc gia trong xã hội hiện đại là biên giới mềm. Sự khẳng định biên giới mềm này trên thế giới có thể thấy rõ qua sự lan toả văn hóa, quá trình đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn đa quốc gia, sự thống lĩnh thị trường hàng hoá của người Nhật Bản, "văn hoá Mỹ, lối sống Mỹ", "con đường tơ lụa phía Nam", hay các "phố Tàu" cũng là một bằng chứng thực thi "biên giới mềm" của Trung Quốc... Truyền thông thông tin toàn cầu, hoạt động doanh thương quốc tế, sự tham gia các định chế của Liên Hợp Quốc... đã tạo ra những cái nhìn đa chiều về các hoạt động khi đưa ra để soi xét độc lập hoặc không độc lập; đóng cửa hoặc mở cửa, hợp tác hoặc không hợp tác; tự nguyện hoặc cưỡng bức... Các lựa chọn này đều được công chúng đưa ra ý kiến phán xét, đánh giá.
Cùng với giá trị độc lập, giá trị tự do có thể tìm thấy ở nhiều chỗ, nhưng tự do phải được gắn liền với độc lập, với sự cư trú của con người. Nhưng tự do không chỉ là dân tộc tự do mà còn là dân quyền tự do; con người có thể được phát triển hết năng lực vốn có của mình thì mới có nghĩa trọn vẹn. Trong xã hội hiện đại, tự do đã không còn chỉ được hiểu theo nghĩa truyền thống là tự do cho tập thể, cho quốc gia mà là tự do cho cá thể, tự do cho mỗi con người. Nhưng tự do không bao giờ là tuyệt đối bởi mỗi cá nhân con người luôn bị chế ước và kiểm soát bởi những luật lệ, những quy định cho phép hoặc/và không cho phép. Quy ước "công chức được làm những gì nhà nước cho phép, người dân được làm những gì nhà nước không cấm" chính là một khuôn mẫu cho các trần về tự do, cho nên con người luôn có khó chịu về mặt tâm lý khi bị người khác phán xét, đánh giá khi muốn vượt trần hoạt động nào đó mà xã hội không hoặc chưa thừa nhận. Khi mức độ phát triển bị hạn chế bởi nhận thức, bởi điều kiện xã hội hoặc bởi một lý do nào đó thì bản thân đối tượng, nhóm đối tượng bị hạn chế đó sẽ có ý kiến phản đối, cao hơn nữa là chống đối.
Dân giàu - Nước mạnh, cặp phạm trù chỉ giá trị về sự Thịnh Vượng của quốc gia. Các tranh luận cho cặp giá trị này về cả nội hàm, ngoại diên hay lượng hoá nó cho mục tiêu cần đạt liên tục được thay đổi theo thời gian và theo thiết chế, định chế xã hội đánh giá. Thế nào là dân giàu, nước mạnh? "dân" là ai, là tất cả mọi người hay chỉ một bộ phận nhỏ nào đó? Giàu là thế nào? là nhiều của cải (giá trị vật chất) hay còn phải giàu về trí tuệ, văn hóa (giá trị tinh thần)? Thế nào là "nước mạnh"? nếu chỉ phát triển kinh tế mà thôi không xây dựng được một xã hội công dân, trong đó mỗi người dân có điều kiện để thực sự làm chủ vận mệnh của mình, trở thành chủ thể đích thực của đất nước, thì nước có mạnh không?v.v...
Khi mục tiêu này được lượng hoá, được triển khai cụ thể từng tiêu chí đi vào cuộc sống sẽ không tránh khỏi những ý kiến phản biện, trái chiều, những ý kiến từ giám sát thực thi của người dân. Ví dụ, một hiện tượng trong phát triển xã hội hiện nay, đó là trong phát triển kinh tế thị trường đã xuất hiện một tầng lớp doanh nhân giàu có. Bên cạnh những doanh nhân giàu lên bằng tài năng thực sự của họ (đây là dấu hiệu tốt cho đất nước) thì vẫn có không ít những doanh nhân, những người "giàu sổi", người giàu kiểu "phú ông", kiểu "trọc phú" vẫn tồn tại - Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, tầng lớp giàu tuy đã nhanh chóng hình thành và phát triển, nhưng cách sống, cách tiêu xài của một số người giàu, một số doanh nhân lại là điều đáng lo ngại cho xã hội. Nếu đất nước phồn vinh, nhân dân thật sự giàu có thì việc tiêu xài xa xỉ cũng là bình thường. Nhưng khi đất nước còn nghèo, mà họ lại có cách sống lãng phí như các "đại thiếu gia", khiến cho dư luận xã hội chú ý, lên án thì đó thật là điều đáng lo ngại, và hiện tượng này không thoát khỏi sự phán xét, đánh giá của dư luận. Hoặc sự giàu, nghèo biến động theo xu hướng gia tăng về khoảng cách ngày càng rộng và đẩy sự bất bình đẳng xã hội tăng lên, nguy cơ tái nghèo luôn đe dọa nhóm dễ bị tổn thương cũng là những vấn đề xã hội nhức nhối khó giải quyết hiện nay.
Trong hệ mục tiêu phát triển, giá trị dân chủ được công chúng bàn luận nhiều nhất (Phan Tân, 2011, tr.50) - có thể xem là giá trị cốt lõi của hệ mục tiêu Dân giàu - Nước mạnh - Dân chủ - Công bằng - Văn minh. Khi bàn đến dân chủ, các quan điểm thông thường cũng như quan điểm khoa học không thể không bàn các nội dung như: Chính phủ dân chủ phải là chính phủ được thành lập bởi nhân dân; chính phủ chỉ là một thành phần cùng tồn tại trong một kết cấu xã hội bao gồm rất nhiều các định chế khác nhau như các đảng chính trị, các tổ chức và các hiệp hội - được gọi là đa nguyên. Ở đây, dân chủ là biết lắng nghe lẫn nhau, đưa ra những giải pháp thông qua thương thuyết, ngay cả khi đa số có thể dùng sức mạnh để áp đặt các quy định mà nhóm thiểu số phản đối; người nắm được 51% trở lên sẽ thắng, những người thuộc về 49% trở xuống có quyền được hưởng một cuộc sống thoải mái và có quyền được người khác lắng nghe.
Tuy nhiên, trong thực tế, mọi chuyện lại không đơn giản như vậy. Để xác định một đất nước có dân chủ hay không thì phải xem xét nhiều vấn đề. Người dân được làm gì và không được làm gì? Quan hệ giữa người dân và nhà nước, chính quyền là quan hệ gì?
Ðộng lực dân chủ biểu hiện ngày càng rõ ở chính trị, khi quyền lực và ý chí của nhân dân được thực hiện thông qua dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện với cơ chế bầu cử dân chủ, với thể chế rõ ràng, công khai, minh bạch. Một khi tiếng nói của người dân được tôn trọng, dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng lợi ích mà còn là chủ thể tham gia đánh giá chính sách, giám sát và kiểm tra việc thực hiện chính sách cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền nói chung thì dân chủ chính trị sẽ tỏ rõ sức mạnh động lực của nó. Môi trường xã hội dân chủ sẽ làm hình thành dư luận xã hội tích cực, thúc đẩy hành động sáng tạo của đông đảo quần chúng, dựa hẳn vào sức mạnh, ý chí của dân để bảo vệ chế độ, chống lại những hành vi phản dân chủ.
Với cá nhân từng người, dân chủ là động lực mạnh mẽ để thực hiện tự do tư tưởng, hình thành nhân cách trung thực và sáng tạo, hình thành nhân cách làm người, khắc phục triệt để tình trạng phân thân, giả dối, xu thời, cơ hội làm lệch lạc, biến dạng nhân cách. Chính ở đây, dân chủ trong ứng xử, đối xử với con người, trong giáo dục đạo đức và lối sống, trong tổ chức đời sống và quản lý xã hội đều được công chúng giám sát, đánh giá một cách khắt khe hoặc cổ vũ cho tính chính danh của tài năng, cái tốt, hoặc phê phán những lệch lạc, yếu kém bởi thiếu vắng dân chủ. Trong chính sách dùng người, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, phát hiện và trọng dụng nhân tài vì sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc, nếu công chúng được giám sát, theo dõi, có ý kiến góp ý, thậm chí là tiến cử hoặc bỏ phiếu bầu một cách dân chủ thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả ngoài mong đợi.
Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận mốc son về tinh thần dân chủ đại điện đã từng được diễn ra dưới triều đại nhà Trần. Khi đó nhằm muốn biến tư tưởng, ý chí của nhà vua và tướng lĩnh thành sức mạnh trong nhân dân để đánh giặc Nguyên Mông lần thứ 2, Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã cho mời các vị bô lão trong toàn quốc về kinh thành dự Hội nghị Diên Hồng (1284) để bàn kế sách giữ nước. Đây là một mẫu mực về hoạt động dân chủ, xin ý kiến nhân dân và tạo dư luận - sức mạnh từ niềm tin của người dân... Hội nghị Diên Hồng được xem như hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của triều đình đến người dân.
3- Giá trị Dân chủ trong hoạt động thực tiễn - vai trò, chức năng của dư luận xã hội hiện nay
Bảo vệ giá trị, phát huy giá trị đạt mục tiêu phát triển, phù hợp thời đại; đồng thời, bảo đảm lợi ích cộng đồng, hạn chế lợi ích nhóm là trách nhiệm của cả cộng đồng. Tuy nhiên, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong định hướng phát triển, bảo đảm giá trị được gìn giữ, thúc đẩy hoạt động xã hội đạt mục tiêu. Nhưng điều quan trọng nhất là cần phải trao vào tay người dân quyền chủ thể thực sự quyết định sự phát triển, bảo vệ và phát huy hệ giá trị.
Việc Chính phủ Việt Nam ban hành "Quy chế dân chủ cơ sở" (1998) là một bước tiến quan trọng nhằm trao vào tay người dân quyền chủ thể thực sự. Quyền chủ thể thực sự quyết định sự phát triển được thể hiện ở 4 phương châm hành động: Dân biết - Dân bàn - Dân làm - Dân kiểm tra.
Quy chế dân chủ ở cơ sở cho thấy các yếu tố "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" có mối liên hệ biện chứng, nó được mở đầu bằng việc cung cấp thông tin và kết thúc ở hoạt động kiểm tra, giám sát có kết luận cuối cùng. Nó phù hợp với con đường hình thành dư luận xã hội và vai trò, chức năng của dư luận xã hội:
- Thông tin công khai, minh bạch mọi sự kiện, vấn đề xã hội diễn ra; các cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, được trực tiếp chứng kiến hoặc nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong xã hội - Dân biết.
Muốn cho dân biết phải cung cấp thông tin cho dân. Người dân có quyền được cung cấp thông tin, để đánh giá tình hình và biểu thị thái độ của họ trong quá trình hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Thông tin phải trung thực, kịp thời. "Mọi việc của đất nước liên quan đến lợi ích của nhân dân, mà việc công khai không phương hại gì đến lợi ích quốc gia, thì người dân phải được biết" (Mai Quỳnh Nam, 2000, tr.51). Việc cung cấp thông tin cho dân biết nhằm thực hiện tính công khai "nói rõ sự thật". Chỉ bằng cách đó, sự đánh giá xã hội của dư luận xã hội mới phản ánh đúng tình trạng xã hội về những vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung.         
- Người dân công khai thảo luận, trao đổi tìm ý kiến chung nhất; các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong  nhóm xã hội - Dân bàn.
Dư luận xã hội phản ánh ý kiến của số đông. Do đó, "việc dân bàn bạc, thảo luận về các thông tin mà họ tiếp nhận được là một khâu quan trọng nhằm nhân rộng tỷ trọng các ý kiến hợp lý đã được thảo luận" (Mai Quỳnh Nam, 2000, tr.52). Sự bàn bạc, thảo luận sẽ giữ lại và nhấn mạnh đến cái phổ biến, cái chủ yếu, gạt đi cái không căn bản, hình thành nên ý kiến chung, thể hiện mối quan tâm chung của người dân về hiện tượng, sự việc.
Hoạt động phản biện mà chúng ta đang kỳ vọng vào các tổ chức chính trị xã hội với định chế trung tâm là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức dân bàn chính thống, có hiệu quả nhất định trong các hoạt động phản biện, góp phần tạo ra sự đồng thuận của xã hội, quy tụ ý chí chung của xã hội, tạo thành hành động cần thiết cho sự phát triển. Tuy nhiên, việc mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ trong phản biện xã hội, để tránh đồng thuận hình thức, gò ép thì "nhân dân phải có tiếng nói thực sự" và tiếng nói này trước hết là tiếng nói của các tầng lớp trí thức và lão thành. Tiếng nói này được phát biểu mạnh mẽ thì sẽ có một lực lượng đông đảo giám sát, ngăn chặn các hành vi tiêu cực trong hành động xã hội của cơ quan công quyền cũng như các cá nhân, tổ chức xã hội khác.
Như vậy, người dân được bàn cách giải quyết dưới nhiều hình thức khác nhau, bằng nhiều kênh truyền tin khác nhau; được cọ xát, trao đổi, cân nhắc về các mặt, về điều hơn lẽ thiệt, về cái lợi cái hại, về cái mới cái cũ, cái hay cái dở với các xu hướng khen hay chê, ủng hộ hay phản đối, chấp nhận hay bác bỏ. Mọi người thay đổi suy nghĩ và ý kiến cá nhân của mình bằng cách chấp nhận, chia sẻ một giải pháp tốt nhất, hợp lý, hợp tình nhất trong số những cách giải quyết được đề xuất.
- Kết quả đánh giá chung (dư luận) của công chúng là cơ sở cho hành động thực tiễn của quần chúng nhân dân - Dân làm.
Xét về phương diện nhận thức, dư luận xã hội là một cấu trúc tinh thần - thực tế, nên nó không chỉ là ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội mà thông qua sự đánh giá xã hội về các hiện tượng, các sự kiện, nó trở thành tiền đề cho hành động thực tiễn để phát huy, hay hạn chế một hiện tượng một sự kiện xã hội nào đó theo chiều hướng phù hợp với lợi ích của đa số cộng đồng người.
Dân làm là bước thể hiện sự đánh giá của dư luận xã hội đi vào hoạt động thực tiễn. Dân làm là sự biểu hiện hành động xã hội của các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội trên cơ sở đều được cung cấp thông tin và đánh giá tình hình sự việc, hiện tượng, vấn đề xã hội thông qua sự thảo luận và bàn bạc tập thể.
Ở đây, vấn đề "lời nói đi đôi với việc làm" có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu các chủ trương, chính sách đề ra là đúng, nhưng không được áp dụng vào thực tế, không thông qua các việc làm cụ thể, các hành động phù hợp với nó, tức là "nói mà không làm" hoặc "nói một đường, làm một nẻo", thì không thể tạo nên hiệu quả xã hội như người ta mong muốn.
- Kết quả của dư luận xã hội, song song với hành động thực tiễn - Dân kiểm tra
Dư luận xã hội hình thành theo con đường chính thức hoặc/và không chính thức. Hoạt động kiểm tra trong mối liên hệ với dư luận xã hội cũng diễn ra theo cơ chế đó. Do dư luận xã hội được hình thành chịu sự chi phối của các giá trị xã hội và các chuẩn mực xã hội, nên đến lượt nó, khi đã hình thành dư luận xã hội lại tác động đến các chuẩn mực, các giá trị xã hội... Dư luận xã hội còn kiểm soát, kiểm tra không chính thức bộ máy Nhà nước và các cán bộ có cương vị lãnh đạo xem hoạt động có phù hợp với lợi ích tập thể hay không, cần thiết phát hiện ra những vấn đề giúp cơ quan tư pháp, hành pháp thi hành tốt nhiệm vụ.
Chức năng kiểm soát của dư luận xã hội có ý nghĩa tích cực trong hoạt động này. Bất kỳ một hành động xã hội nào cũng đều được kiểm tra, giám sát cho đến khi có kết quả cuối cùng. Dư luận xã hội đưa ra những lời tán dương, ủng hộ với những hành vi mà nó cho là phù hợp chuẩn mực, đúng đắn và lên án những hành vi vi phạm chuẩn mực.
4. Bảo đảm giá trị, hướng đến mục tiêu phát triển - định hướng dư luận xã hội lành mạnh
Trong hoạt động sống, các cá nhân, nhóm đều phải học hỏi giá trị và quy tắc xã hội để tồn tại. Các giá trị được thừa nhận là những cái có tầm quan trọng đối với nhóm hoặc cộng đồng. Tuy thế, khi thực hiện hoạt động tuân thủ giá trị, các thành viên nhiều khi không tuân theo các quy tắc để đáp ứng kỳ vọng của nhóm hoặc cộng đồng. Những giá trị cụ thể như: nghề nghiệp, tiền bạc, quyền lực... luôn được xem là có giới hạn hoặc khan hiếm làm cho chúng có thể trở thành đối tượng, mục tiêu của sự cạnh tranh và xung đột. Vì vậy, để ổn định xã hội cần có cơ chế kiểm soát và điều chỉnh các thành viên tuân theo giá trị của nhóm.
Một trong những nguyên nhân của xung đột xã hội là có sự khác biệt trong nhận thức, hành vi bảo vệ giá trị và lợi ích. Mâu thuẫn thường bắt nguồn từ những hiện tượng vốn rất bình thường ban đầu, sau đó nảy sinh do sự khác biệt về quan điểm giá trị và lợi ích, do sự hưởng thụ từ giá trị và lợi ích. Vai trò, chức năng của dư luận xã hội đối với đời sống là không thể phủ nhận, và dư luận xã hội phủ khắp mọi lĩnh vực, mọi mối quan hệ xã hội. Dư luận xã hội tham gia thảo luận, phán xét, đánh giá; đồng thời biến thành hành động thực tiễn của quần chúng trong mọi hoạt động nhằm bảo vệ giá trị và lợi ích cá nhân, xã hội.
Hiện chúng ta đang đứng trước các nan đề mâu thuẫn của cặp hệ giá trị này: 1) Quan điểm độc lập cực đoan, kiểu chủ nghĩa dân tộc, hạn chế hợp tác bên ngoài, mâu thuẫn với quan điểm mở rộng hội nhập, phát triển, thừa nhận biên giới mềm. 2) Quan điểm tự do tuyệt đối, mâu thuẫn với quan điểm tự do trong khuôn khổ pháp luật để giữ sự ổn định. 3) Quan điểm đạt được sự thịnh vượng quốc gia phải ưu tiên tăng trưởng nhanh, mâu thuẫn với quan điểm phát triển bền vững hài hoà giữa tăng trưởng và phát triển bền vững. 4) Quan điểm thực hành dân chủ từng bước, giữ vững ổn định, dân chủ có kiểm soát mâu thuẫn với dân chủ trên tất cả các mặt, đặc biệt là tự do ngôn luận.
Vấn đề đặt ra là cần điều hòa được các mâu thuẫn đó khi liên quan đến giải quyết các lợi ích cho cá nhân, nhóm, cộng đồng. Dư luận xã hội, định hướng dư luận xã hội chính là từng bước điều hòa các mâu thuẫn, dung hòa các quan điểm, hướng tới giải pháp "Hoà Hợp" các mặt đối lập trong một mâu thuẫn.
Nhận thức được vai trò của dư luận xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới thành lập đã coi việc nắm bắt lòng dân (tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân) là một trong những công việc quan trọng hàng đầu nhằm đề ra được các chủ trương, đường lối cách mạng phù hợp lòng dân.
Nhiều văn bản, quyết định của các cơ quan lãnh đạo Đảng đã khẳng định vai trò của công tác nghiên cứu dư luận xã hội. Ngay từ năm 1982, Ban Bí thư đã quyết định thành lập Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, trong đó có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn như: “Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội có nhiệm vụ tổ chức việc nghiên cứu dư luận nhân dân đối với những vấn đề cơ bản của đất nước và những vấn đề quan trọng có tính thời sự theo quan điểm Mác - Lênin; tổng hợp, phân tích dư luận xã hội để báo cáo với các cơ quan Đảng và Nhà nước; tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thông tin viên, cộng tác viên của Viện về lý luận, nghiệp vụ. Viện được trực tiếp quan hệ với các cấp ủy đảng, các ngành, các đoàn thể quần chúng để tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội”. Ngoài ra ở một số đầu mối như các viện nghiên cứu xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các trường đại học đã có thành lập bộ phận, khoa ngành về dư luận xã hội nhưng còn mang tính lắp ghép.
Những năm đầu Đổi mới và đặc biệt là thời gian gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục có những sự chỉ đạo nhằm tăng cường công tác điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội như: Trong văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng đã nêu ra nhiệm vụ đối với công tác tư tưởng: “Nâng cao chất lượng thông tin nội bộ và công tác tuyên truyền, coi trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội”. Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VII) về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam yêu cầu: “Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước. Xây dựng luật về trưng cầu dân ý”. Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng công tác nghiên cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công tác tư tưởng". Gần đây nhất, để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 08-KH/TW ngày 12/03/2012, trong đó chỉ đạo "Đổi mới và nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân để tham khảo trước khi ra quyết định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước".
Về phía Chính phủ, năm 2005, trong Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, ban hành kèm theo Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, một trong các chiến lược được đề cập là "Hoàn thiện phương thức và cơ chế phối hợp để xử lý có hiệu quả thông tin phản hồi của nhân dân đóng góp, phản ánh với Đảng và Nhà nước; nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội; tăng cường hệ thống thông tin đối ngoại, chủ động đấu tranh với quan điểm sai trái, thù địch".
Như vậy, việc nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội đã được sự bảo đảm ít nhiều bằng đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền. Trong vai trò của dư luận xã hội, những vấn đề thuộc thiết chế về việc bảo vệ, phát huy giá trị, thúc đẩy hoạt động xã hội đạt mục tiêu được tăng cường. Tuy nhiên, trên thực tế, cái chính danh trong nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội về mặt nhà nước còn nhiều vướng mắc. Cá nhân trong cộng đồng rất e ngại dư luận, đánh giá cao hoặc biết sức mạnh của nó, và không ít cán bộ công quyền né tránh dư luận xã hội. Nhưng trên thực tế, dư luận xã hội lại không thực sự đi vào cuộc sống để phát huy hiệu quả thực hiện các chức năng, vai trò của nó bởi về mặt nhà nước chúng ta chưa có định chế thực sự quy định hiệu lực của các kết quả nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội. Vì vậy, vấn đề quan trọng là cần phải có một hệ thống luật pháp đầy đủ, mà bộ luật chính yếu, cụ thể là Luật Trưng cầu dân ý. Luật  Trưng cầu dân ý là cơ sở pháp lý nghiên cứu dư luận xã hội; và hơn thế nữa phải khẳng định quyền phúc quyết của toàn dân (toàn thể công dân) trong Hiến pháp với tư cách Luật nền tảng chung của Hệ thống pháp luật và là Khế ước xã hội công dân.
Dư luận đánh giá, bảo vệ và phát triển được giá trị; dư luận đánh giá, bảo vệ và đảm bảo sự công bằng trong điều hòa lợi ích chính là kỳ vọng của tất cả những ai biết, hiểu, nghiên cứu, nắm bắt, định hướng dư luận xã hội. Cho dù thế nào thì trong xã hội Việt Nam hiện nay, để bảo đảm được một môi trường xã hội lành mạnh, trong đó dư luận xã hội thực sự phát huy được vai trò, chức năng của dư luận cũng cần chú ý một số vấn đề trọng tâm:
1) Xác định giới hạn, nguyên tắc, quy tắc quan hệ giữa nhà nước với nhân dân; trong đó đặc biệt chú trọng minh bạch và công khai hóa các thủ tục hành chính, các cơ chế, chính sách nói chung; tạo cơ chế hữu hiệu cho người dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và giám sát hoạt động của nhà nước; tự do ngôn luận theo pháp luật và tôn trọng dư luận xã hội.
2) Phản biện khoa học, phản biện xã hội, phải trở thành hoạt động thường xuyên, có cơ chế để mọi người dân, mọi tổ chức xã hội tham gia vào xây dựng quyết sách nhất là khi nó liên quan đến các lợi ích trực tiếp đến đời sống của họ.
3) Xây dựng xã hội dân sự, tạo ra nhiều cơ hội cho hoạt động độc lập của các tổ chức này thực hiện quyền giám sát quyền lực nhà nước độc lập; tổ chức hoạt động diễn đàn thảo luận và điều tra dư luận xã hội, trưng cầu dân ý về các vấn đề nhạy cảm và quan trọng đang đụng chạm đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
4) Bảo đảm cơ chế cho các phương tiện tuyền thông đại chúng trong việc hình thành, thể hiện dư luận xã hội và thông qua dư luận xã hội tác động đến cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Các phương tiện truyền thông đại chúng không chỉ là tiếng nói của Đảng cầm quyền, của Nhà nước mà còn là diễn đàn của nhân dân, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân; trong đó có việc đề xuất các vấn đề nên làm, các vấn đề cần được bổ sung hoàn thiện.
5) Hàng năm có hướng nghiên cứu định kỳ dư luận xã hội về hệ giá trị này và phải được tiến hành trên quy mô lớn, xem đánh giá của dư luận xã hội đến mục tiêu hướng tới của giá trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Các văn bản về Quy chế dân chủ ở cơ sở (1999), Nxb Thống kê, Hà Nội, 7/1999.
2- Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
3- Phạm Minh Hạc (2011), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc đúc kết, xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu con người 3(54)/2011.
4- Phạm Minh Hạc (2011), Giá trị học - Cơ sở lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5- Mai Quỳnh Nam (1996), Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp chí Xã hội học số 1 (53), 1996, tr. 3-6.
6- Mai Quỳnh Nam (2000), Vai trò của dư luận xã hội trong cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, Tạp chí Tâm lý học số 2 , 4/2000, tr. 50-54.
7- Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb CTQG Hà Nội, 2005.
8- Phan Tân (2011), Dân chủ trong hệ mục tiêu đổi mới phát triển, Tạp chí Triết học, 6(241)/2011, tr.50-57.
9- Phan Tân (2013), Chuyển biến tư duy về dân chủ và một số thành quả thực hiện qua đánh giá từ thực tiễn sau hơn 20 năm đổi mới, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, 4(364)/2013, tr.14-22.
10- Phan Tân, Bùi Phương Đình (2014), Truyền thông ngày nay và dư luận xã hội trước một số hiện tượng xã hội bức xúc, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, 1(373)/2014, tr.32-40.
11- Lưu Minh Trị (chủ biên) (1997), Một số vấn đề về công tác tư tưởng và nghiên cứu dư luận xã hội, Nxb CTQG Hà Nội.








"†" Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số I3.4-2011.09.
(*) Đến thời đại Hồ Chí Minh (thời đại bắt đầu của nước Việt Nam mới, tạm tính từ 1945 đến nay) các hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc và Dân giàu - Nước mạnh - Dân chủ - Công bằng - Văn minh, mỗi giá trị, mỗi mục tiêu phát triển mới từng bước được được phát triển về mặt lý luận và thừa nhận chính danh.
(**) Khu Nội Mông Cổ, Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, Bách Việt... vốn là các tiểu quốc trong lịch sử đã bị người Hán thôn tính và đồng hoá bằng chính vũ lực và văn hoá. Lịch sử gần nhất là người Mãn Thanh kéo về cai trị người Hán nhưng rốt cuộc cũng bị người Hán đồng hoá lại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét