Lâu nay cả xã hội sục
sôi vì Tin đồn... bởi sự thiếu minh bạch, thiếu công khai, thiếu kịp thời của truyền
thông chính thống, và việc "ăn phải tin đồn" đã để lại những hậu quả
nặng nề trong đời sống tinh thần xã hội... Những nghiên cứu khoa học nghiêm túc
về Tin đồn ở Việt Nam vẫn còn vắng bóng, trong khi đó, ở nước ngoài, đặc biệt
là Hoa Kỳ, những nghiên cứu cơ bản, hàn lâm về Tin đồn đã được triển khai
nghiêm túc từ những năm đầu thế kỷ XX. Trong quá trình nghiên cứu về Dư luận xã
hội, mình đã có dịp tiếp cận công trình Tin đồn và Dư luận xã hội (Rumor and public opinion) của WARREN A. PETERSON và NOEL P. GIST.
đăng Tạp chí American Journal of
Sociology, September 1951, Vol.57, No.2, 159-167 pp.
Cho dù muộn nhưng Tạp
chí Thông tin Khoa học xã hội đã đăng bản dịch trên số tháng 5(389)2015.
Xin
giới thiệu trên blog hầu mọi người tham khảo!
Rumor and Public Opinion
WARREN A.
PETERSON, NOEL P. GIST.
American Journal of Sociology, September 1951, Vol.57, No.2, 159-167 pp.
American Journal of Sociology, September 1951, Vol.57, No.2, 159-167 pp.
Phan Tân(++)
Tóm tắt: Tin đồn là một nỗ lực của tập thể để
giải thích một tình huống có vấn đề và gợi nhiều cảm xúc. Một cuộc nghiên cứu trường hợp cho
thấy rằng khi công chúng thực sự quan tâm đến, tin đồn có xu hướng được xây
dựng và trở nên đa dạng, trái với mong đợi và giả định mà Allport và Postman đã
tổng quát trên cơ sở thử nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Từ khóa: Xã hội học, Dư luận xã hội, Tin đồn, Nghiên cứu trường hợp.
I
“Tin đồn”,
trong cách sử dụng thông thường, đề cập đến một thông tin chưa được xác minh
hoặc lời giải thích về các sự kiện, lan truyền từ người này sang người khác và
liên quan đến một đối tượng, sự kiện hoặc vấn đề được công chúng quan tâm. Dù
với định nghĩa như vậy, các tin đồn có thể được xử lý riêng rẽ và vấn đề là
tách riêng biệt các loại có đặc điểm chung. Có sự khác
biệt đáng kể giữa các loại tin đồn khác nhau: tin đồn quá
khứ tập trung vào các tác động của các sự kiện trong quá khứ, trái ngược với
những tin đồn tiềm năng hoặc tin đồn tiên đoán dự đoán về tương lai; những tin
đồn được gieo rắc và lan truyền một cách có hệ thống để phục vụ mục đích của
các nhóm đặc biệt, so với những tin đồn phát sinh một cách rõ ràng, tự nhiên trong điều kiện bất ổn xã hội;)những tin đồn thể hiện sự bay bổng tột cùng của những
giả định giàu trí tưởng tượng, trái ngược với những
tin đồn mang tính chất hợp lý, giống kiểu tin tức. Do sự khác biệt lớn này, cần phải chú ý đến việc xác
định và phân loại các tin đồn và vị trí của chúng trong lĩnh vực hành vi tập
thể[i].
Đặc biệt, các phân tích tin đồn khách quan còn tùy thuộc vào cách xử lý có hệ
thống của các quá trình dư luận xã hội khác nhau.
Mối quan tâm
hiện nay của chúng tôi là những tin đồn có vẻ phát sinh một cách tự nhiên sau
khi công chúng đã được hình thành thông qua mối quan tâm chung về một vấn đề
hoặc sự kiện[ii]. Những
tin đồn kiểu này có thể được coi là kết quả của những nỗ lực của tập thể để
giải thích một tình huống có vấn đề, khi công chúng xem xét tình huống đó theo
cảm xúc và khi còn thiếu thông tin chính thức.
Khác với các
khái niệm tĩnh hơn như “văn hóa”, “dư luận xã hội” chỉ những thái độ và niềm
tin tạm thời và biến động do những nỗ lực của tập thể để giải thích liên tục
những tình huống mới xuất hiện. Một nhóm người bày tỏ một mối quan tâm đến một
sự kiện hoặc vấn đề, truyền qua lại những thái độ và niềm tin liên quan đến nó,
và giải thích những niềm tin và thái độ này bằng các thuật ngữ của bối cảnh văn
hóa hiện tại và các hệ quy chiếu chuyên ngành của chúng. Điều này xảy ra trong
một tổ chức xã hội và phụ thuộc vào sự lãnh đạo, các mối quan hệ nhóm và các
kênh thông tin liên lạc trong xã hội[iii].
Do sự xuất hiện
liên tục của những sự kiện và vấn đề mới, các kênh thể chế hóa đã phát triển trong xã hội của chúng ta để
truyền những thái độ và niềm tin mới. Các thông tin có ý nghĩa xã hội trên diện
rộng thường được lan truyền bởi phương tiện truyền thông đại chúng, ít nhất là
một phần. Thông tin quan trọng đối với một nhóm hay tổ chức cụ thể thông thường
được lan truyền dưới dạng văn bản chính thức hoặc được truyền đạt xuống các cấp
dưới, một cách phi chính thức hơn, với sự hiểu biết rõ ràng rằng có một số hình
thức xử phạt có căn cứ. Dư luận xã hội giống như một phản ứng tự động hơn là
một quan điểm có căn cứ. Ngay cả khi không có ý kiến xác thực trái ngược nhau,
các vấn đề được thảo luận một cách phi chính thức và liên quan đến các thái độ
và niềm tin chuyên môn của các nhóm cụ thể.
Ý kiến tin
đồn rất khác so với các hình thức ý kiến công chúng khác, nó không được xác
minh bằng các kênh truyền thông thông thường. Người ta thường giả định rằng tin
đồn là điều bất thường, bệnh hoạn, phản ánh
thực tế rằng những người liên quan thường được trông
đợi hoặc quen với việc dựa vào uy quyền hoặc một loại uy quyền khác nhau. Môi
trường xã hội có lợi cho tin đồn xảy ra khi xã hội quan tâm và lo ngại về một
quá khứ hay một sự kiện được mong đợi, khi thiếu thông tin chính thức và
lời giải thích, và khi việc kiểm soát của xã hội liên quan đến tình huống không
nằm ngoài tầm kiểm soát của hầu hết các thành viên cộng đồng[iv].
Dưới những
điều kiện này, chúng ta trông đợi nhiều hơn vào các cuộc thảo luận phi chính
thức khi sự quan tâm của các cá nhân có xu hướng gia tăng. Công chúng có thể
được mở rộng để bao gồm những người ban đầu vốn không quan tâm hay được biết
thông tin về tình hình. Khi những người này chuyển từ nhóm thảo luận này sang
nhóm thảo luận khác, lời đồn đoán có xu hướng được truyền đến người khác như là
một tin đồn; và tin đồn sẽ được thể hiện như là một sự thật, thường được củng
cố bằng cách trích dẫn những nguồn được cho là chính thống.
Thông thường,
công chúng tin đồn có nhiều cảm xúc hơn các nhóm công chúng khác. Đôi khi, nó
hơi giống hành vi đám đông. Đối tượng tin đồn thường gợi nhiều liên tưởng cảm
xúc - hấp dẫn, kỳ quặc, kỳ lạ. Những vấn đề liên quan đến phóng hỏa, giết người
và lệch lạc giới tính thường được dùng làm các chủ đề
tin đồn (ít nhất là trong xã hội Mỹ). Trong chừng mực công chúng phản ứng về
mặt tình cảm với một vấn đề, sự kiểm soát hợp lý, tin tức về nó là sự giải
thoát và sự suy đoán, và sự tưởng tượng sẽ được khơi dậy. Goldhamer cho rằng sự
xúc động dễ thay thế/di chuyển đối với con người hơn đối với những đối tượng
không phải là con người (Xem: Herbert Goldhamer, 1950). Tin đồn có nhiều khả
năng xảy ra khi sự quan tâm của xã hội tập trung vào một người, mặc dù
các nhóm được quy chụp với những định kiến nặng về cảm xúc cũng có thể gây ra
tin đồn.
Trong các
giai đoạn đầu của quá trình này, các thành viên công chúng liên quan đến tin
đồn thay đổi rất nhiều về mặt thái độ đối với đối tượng, vấn đề hay sự kiện,
theo cường độ và loại quan tâm, mối lo ngại hay sự lo lắng. Sự thay đổi này có
lẽ lớn hơn hầu hết các loại công chúng khác. Việc truyền tin đồn có xu hướng làm
giảm sự chênh lệch trong thái độ và tạo ra một định nghĩa chung về tình hình và
một cảm giác hoặc tâm trạng thường gặp. Tin đồn là một cách để một tập thể, dù
là một tập thể tạm thời và không ổn định, xuất hiện từ một tập hợp.
II
Công trình của Allport và Postman tiêu biểu cho một
trong những nỗ lực toàn diện nhất để xem xét tin đồn một cách khách quan
(Xem: Gordon
W. Allport và Leo Postman, 1947). Sử dụng những gợi ý phương pháp học từ các thí nghiệm tâm
lý về trí nhớ và sự gợi nhớ, những nhà nghiên cứu này đã thiết kế một loạt các
thí nghiệm được kiểm soát một cách cẩn thận, sử dụng các chuỗi gồm sáu hoặc bảy
đối tượng được lựa chọn. Đối tượng đầu tiên sẽ được thấy một kích thích thị
giác, dưới hình thức một hình ảnh về một khung cảnh xã hội có tính gợi mở. Từ
đó đối tượng sẽ chuyển những ấn tượng của mình về hình ảnh đó sang người thứ
hai, người thứ hai sẽ tiếp tục chuyển những ấn tượng của mình nhận được từ báo
cáo của người thứ nhất sang người thứ ba và tiếp tục như vậy. Các kết luận về
bản chất của tin đồn được rút ra bằng cách so sánh “báo cáo cuối cùng” với các
kích thích ban đầu.
Allport và Postman tóm tắt các kết luận của mình bằng
ba khái niệm: cân bằng, làm sâu sắc thêm và đồng hóa. “Cân
bằng” đề cập đến xu hướng khi một tin đồn lan truyền, nó “trở nên ngắn hơn, súc
tích hơn, dễ nắm bắt và dễ kể hơn. Trong các phiên bản kế tiếp, ít từ được sử
dụng hơn và ít chi tiết được nhắc đến hơn” (Gordon W. Allport và Leo
Postman, 1947, tr.76). “Làm
sâu sắc thêm” được định nghĩa là “sự nhận thức, ghi nhớ và báo cáo chọn lọc một
số chi tiết giới hạn của một bối cảnh lớn hơn” (Gordon W. Allport và Leo
Postman, 1947, tr.86). Và
“đồng hóa” “liên quan đến lực hấp dẫn mạnh mẽ tác động lên tin đồn bởi bối cảnh
trí tuệ và cảm xúc hiện hữu trong tâm trí người nghe” (Gordon W. Allport và Leo
Postman, 1947, tr.100).
Những khái niệm này không phải là những giả thuyết
mang tính gợi ý mà chúng là những khái quát cụ thể và rõ ràng. Ví dụ, Allport
và Postman nói rằng: “Những gì nhìn thấy hoặc nghe thấy phải [nguyên
văn] được đơn giản hóa theo các quá trình tiết kiệm bộ nhớ” (Gordon W. Allport và Leo
Postman, 1947, tr.147).
“Người ta thường cho rằng những tin đồn được thêu dệt khi nói chuyện hoặc chúng
được phóng to như một quả cầu tuyết đang lăn. Đó là một quan niệm sai lầm” (Gordon W. Allport và Leo Postman, 1947, tr.163). “Sự rập khuôn là kết quả của việc
đơn giản hóa thái quá để giảm thiểu nỗ lực tinh thần” (Gordon W. Allport và Leo Postman, 1947, tr.103).
Tiếp cận của Allport-Postman khác với những tiếp cận
khác đề cập đến tin đồn như một hình thức dư luận xã hội và đề cập đến dư luận
xã hội như một quá trình tập thể phức tạp. Họ giả định rằng bối cảnh xã hội nơi
những tin đồn xảy ra có thể được biến thành một chuỗi các đối tượng; rằng, bằng
cách ngầm định, sự lan truyền rộng rãi của tin đồn không gì khác ngoài việc bổ
sung những chuỗi đó; và rằng tin đồn có thể được giải thích, ít nhất một phần
nào đó, bằng cách tham chiếu các cơ chế tâm lý thống nhất và phổ biến như “quá
trình tiết kiệm bộ nhớ”.
Ngoài ra, có lẽ còn quan trọng hơn, Allport và Postman
đã tiến hành giả định rằng tin đồn về cơ bản là kết quả của việc bóp méo thông
tin trong nhận thức và trong giao tiếp bằng lời nói đơn phương. Vì vậy,
trong quá trình thí nghiệm của họ, họ đã hoàn toàn bác bỏ những thay đổi về mặt
ý nghĩa và động cơ, những thay đổi xảy ra trong quá trình thảo luận phi chính
thức. Họ cũng bỏ qua khả năng cùng một cá nhân lan truyền tin đồn đến một loạt
những người khác có thể kể các phiên bản khác nhau cho mỗi người. Đó không phải
là do trí nhớ của người ấy mà là do mối quan hệ của họ với những người nghe.
Ngoài mặt, rõ ràng rằng những người xây dựng và lan
truyền tin đồn không phản ứng một cách thụ động với một kích thích như Allport
và Postman ám chỉ, họ chỉ hành động trong một tình huống có vấn đề và gợi nhiều
cảm xúc đối với họ. Những kỳ vọng, nỗi sợ hãi, lo âu, thù địch và khát vọng của
xã hội thường được thể hiện một cách rõ ràng trong các tin đồn. Sự phát triển
và lan truyền tin đồn liên quan đến việc giải thích, thảo luận, suy đoán và
tưởng tượng một cách sáng tạo.
Tương tự như vậy, quan sát thông thường tiết lộ rằng
sự giao tiếp là một mạng lưới thời gian - không gian phức tạp, liên quan đến
những người nhận, thảo luận, diễn giải, quên và lan truyền những thái độ và niềm
tin trong một loạt các tình huống xã hội. Tốc độ nhanh chóng và tính chất phức
tạp của quá trình khiến tin đồn trở thành một vấn đề khó kiểm tra một cách
khách quan. Có rất ít khả năng các vấn đề về phương pháp có thể được giải quyết
bằng cách áp dụng các quy trình đơn giản hóa và kiểm soát chính thống được sử
dụng trong tâm lý học thực nghiệm. Những bất ngờ trong phương pháp đưa đối
tượng điều tra hoàn toàn ra khỏi bối cảnh đến mức các kết quả không còn liên
quan đến tin đồn mà chỉ còn là những nhận thức, trí nhớ và sự gợi nhớ đơn giản.
Bởi Allport và Postman thiết kế tình huống thực nghiệm của mình như một phòng
học, các kết luận của họ - cân bằng, làm sâu sắc thêm và đồng hóa - tương tự
như những kết luận của các nhà tâm lý học giáo dục về việc duy trì nền giáo dục
chính quy.
Từ đó Allport và Postman tóm tắt các kết luận của họ
một cách khá chính xác theo các khái niệm cân bằng, làm sâu sắc thêm và đồng
hóa, việc kiểm tra các khái niệm này có thể được tiến hành để xác định liệu
những kết luận thu được từ phương pháp của họ có ý nghĩa và mang tính thuyết
minh không khi được áp dụng trong các trường
hợp thực tiễn - những tình huống “tự nhiên” chứ không phải những tình huống
thực nghiệm. Một số các tin đồn đã được điều tra bởi các tác giả được trình bày
ở đây như là một kiểm tra thực tiễn phương pháp Allport-Postman và như là một
nghiên cứu trường hợp chung về tin đồn.
III
Các tin đồn được lan truyền tại một thành phố nhỏ ở
miền Trung Tây trong thời điểm người dân đang lo lắng về một vụ án chưa được
phá - vụ cưỡng hiếp và sát hại một cô gái mười lăm tuổi. Các tin đồn, hay bộ các tin đồn, có rất nhiều biến thể
nhưng đều có chung một chủ đề: ông chủ chủ gia đình thuê nạn nhân làm người giữ
trẻ buổi tối hôm đó đã quay trở về nhà từ một buổi tiệc không cùng với vợ mình
và sát hại cô gái. Mặc dù không có xác minh đáng tin cậy vào thời điểm đó hay
các thời điểm sau đó, các tin đồn được lan truyền trong khắp cộng đồng dẫn đến
sự phấn khích đáng kể. Thời gian kể từ thời điểm xảy ra vụ án cho đến khi các
tin đồn lan truyền là hai tuần. Trong hai ngày đầu tiên, báo đài dành riêng các
tin bài để báo cáo tất cả các chi tiết có thể về vụ sát hại và rà soát các vụ
án tương tự xảy ra trong hai năm trở về trước trong cùng khu dân cư.
Tiếp đến là một số các sự kiện được sử dụng để kích
thích sự quan tâm đến vụ án và suy đoán về danh tính của kẻ sát nhân. Thông qua
báo đài, cảnh sát kêu gọi bất kỳ thông tin nào có liên quan đến vụ án. Người
dân được yêu cầu trình báo cảnh sát về bất kỳ người đàn ông nào có vết trầy
xước hoặc vết cắt trên mặt hoặc trên bàn tay. Một chiến dịch được tổ chức để
trao thưởng cho bất kỳ thông tin nào dẫn đến việc bắt kẻ sát nhân. Đội Vệ binh
Quốc gia được gọi đến để kiểm tra toàn bộ khu vực nhằm tìm ra các đầu mối có
thể. Ở một khu vực gần nơi vụ sát hại xảy ra, cảnh sát đuổi bắt và nã súng vào
một người đi dạo nhưng đã không bắt được hắn. Xe cảnh sát liên tục tuần tra
trên các đường phố ở các vùng lân cận.
Các hoạt động khác nhau bày tỏ sự quan tâm đặc biệt
của các nhóm cụ thể và phục vụ cho việc tăng cường sự quan tâm chung của xã hội
như được ghi nhận bởi những người khác. Rất nhiều người dân đã lái xe ngang qua
hiện trường vụ án. Có những người dành hết tâm sức để thu thập thông tin về gia
đình của cô gái và gia đình thuê cô làm người trông trẻ. Các biện pháp được thực hiện để bảo vệ các gia đình khỏi những kẻ xâm
nhập. Các bé gái và các cô gái trẻ được cảnh báo không đi lại một mình sau khi
trời tối. Vụ án hiếp-giết đã trở thành một chủ đề chung bất cứ khi nào mọi người
tụ tập và nói chuyện.
Gần như ngay lập tức sau khi vụ án xảy ra, tin đồn bắt
đầu lan truyền về danh tính của kẻ sát nhân. Những tin đồn (hay suy đoán) này
rất đa dạng, rải rác và trong thời gian ngắn. Người ta nói hoặc đoán rằng kẻ
sát nhân là một người da đen; một học sinh cấp ba; một người lái xe taxi, và
một cậu bé bị đần.
Cũng có những tin đồn về hoạt động kém hiệu quả và sự
tham nhũng của giới cảnh sát. Các vấn đề về thẩm quyền của cảnh sát tiếp tục là
đề tài thảo luận chung của xã hội trong và sau thời gian có tin đồn kẻ sát hại
cô gái trông trẻ chính là người chủ của cô ấy. Người mà chúng tôi sau đây sẽ
gọi là “anh X”, đã bị cáo buộc là rời khỏi bữa tiệc vợ chồng anh đang tham dự,
quay trở về nhà, cưỡng hiếp và sát hại cô gái, rồi quay trở lại bữa tiệc sau
khi đã thay quần áo. Nói chung, đây là yếu tố phổ biến trong các tin đồn được
lan truyền trong ba hoặc bốn ngày.
Có vô số các biến thể được xây dựng từ chủ đề trung
tâm này cho thấy sự giải thích, suy đoán và trí tưởng tượng sáng tạo của một bộ
phận xã hội theo chiều hướng liên kết câu
chuyện với những quan niệm trước đây về các vụ sát hại, gán các đặc điểm thường
thấy của những tên tội phạm tình dục với anh X, xây dựng cơ sở để đồng cảm với
vợ của anh ta, cung cấp tin tức xác minh xác thực, tạo nên một câu chuyện giật gân.
Cả hai tác giả đều
sống trong khu vực đã quan sát một cách cẩn thận hết mức có thể sự lưu truyền
của riêng bộ tin đồn này và tập hợp tất cả các thông tin có thể về các sự kiện
trước đó. Khoảng một trăm sinh viên đại học, cư trú ở các nơi khác nhau
trong khu vực, được yêu cầu viết lại bất kỳ tin đồn hay thông tin nào họ nghe
được tuần trước liên quan đến vụ án giết-hiếp[v]. Các
loại tin đồn thu thập được thông qua cách này cho thấy một cấu trúc có một chủ
đề cơ bản nhưng kèm theo đó một loạt các cách giải thích chi tiết, một số các
cách giải thích đó mâu thuẫn với nội dung lý tưởng.
Sự vắng mặt của anh X
trong bữa tiệc
trong bữa tiệc
“Anh X rời khỏi bữa tiệc trong 2 tiếng, từ 9h30 đến
11h30”.
Các nguồn thông tin khác nhau nói khoảng thời gian là
nửa tiếng, 1 tiếng rưỡi, từ 11h00 đến 12h30, và từ 11h00 đến 12h00.
“Khi anh X quay trở lại bữa tiệc, anh ta đã hoàn toàn
thay đổi quần áo mặc trên người, có vài vết trầy xước trên mặt anh ta”.
Các nguồn thông tin khác nhau nói có những vết trầy
xước trên lưng và trên ngực anh ta.
“Người ta nói X rời bữa tiệc trong khoảng 2 tiếng. Anh
ta nói anh ta ra ngoài mua thêm rượu, nhưng thực chất anh đã quay trở về nhà và
hoàn toàn làm cô gái trẻ bất ngờ”.
Cũng có thông tin nói rằng anh ta nói anh điền tờ khai
thuế thu nhập trong lúc vắng mặt.
“Khi anh X quay trở lại bữa tiệc, trên giày anh ta có
vết máu và bùn”.
“Anh X đã rời khỏi bữa tiệc, đi
xe buýt, giết người và quay trở lại bữa tiệc”.
Phát hiện và bắt giữ anh X
“Anh X bị bắt và thẩm cung suốt một ngày”.
“Anh X đang bị bắt giữ ở thành phố Jackson” (cách 30
dặm).
“Chó nghiệp vụ theo dấu máu ba lần theo dấu con đường
dẫn đến nơi anh X chơi bài, nhưng do những lý do chính trị, việc bắt giữ không
được thực hiện dựa trên đầu mối này”.
“Anh X đã thú tội ở thành phố Jackson”.
“Khi bị cảnh sát tra hỏi, X đã đưa ra vài câu chuyện
về nơi anh ta ở khi vắng mặt khỏi bữa tiệc”.
“X đã bị giam ở nhà tù địa phương để thẩm vấn. Anh ta
đã ở đấy hai ngày và không thể giải thích cho 2 tiếng anh ta vắng mặt khỏi bữa
tiệc”.
“X đã ký vào bản
thú tội. Anh ta đã ngay
lập tức chuyển đến California, sau đó lương tâm cảm thấy cắn rứt, anh ta đã gửi
bản thú tội đã được ký đến cảnh sát địa phương”.
“Cảnh sát và FBI đã theo dõi anh ta kể từ sau đám tang”.
“Tôi nghe tin anh ta đang bị giữ để thẩm vấn và cảnh
sát đang cố bắt anh ta thú tội”.
“Anh X đang ở trại giam”.
“Cảnh sát đã đón anh
ta đêm qua và nhanh chóng đưa anh ta rời khỏi thành phố Jackson. Họ sợ để anh
ta ở đây”.
“Anh X đang bị giữ ở thành phố Jackson để thẩm vấn và
làm các cuộc kiểm tra, ví dụ như kiểm tra qua máy phát hiện nói dối”.
“Thực tế là, anh X không bị bắt giữ. Họ tin là anh ta
có thể đang ở California”.
“Anh X đang ẩn náu với gia đình ở Utah”.
“X đang bị giam giữ vì tội giết người; anh ta đã bị
bắt giam ở Minnesota”.
“Cảnh sát đã thẩm vấn anh ta vài lần nhưng anh ta
không đưa ra được câu trả lời thỏa đáng về nơi mình đã ở” [trong khoảng thời
gian vắng mặt khỏi bữa tiệc].
Bằng chứng liên quan
đến vụ tấn công
đến vụ tấn công
“Anh ta... vào nhà bằng cửa trước; thế nên đèn ở hiên
bật sáng, bởi vì cô B nhận ra anh ta và cho anh ta vào nhà. Anh ta đặt cái giá
cưa ở bên cạnh cửa sổ và làm vỡ cửa sổ nên làm cho nó giống như kẻ sát nhân đã
đi vào qua cửa sổ”.
“Trong nhà không có dấu vân tay nào khác ngoài dấu vân tay của gia đình X”.
“Chiếc dây quấn quanh cổ cô B trước đó đã ở một nơi rất kín trong tủ
quần áo và kẻ tấn công không thể nào tìm ra nó nếu như hắn không biết trước nó
ở đâu. Sau đó tôi nghe nói rằng cửa sổ bị phá từ bên trong”.
“Vết bùn dẫn vào phòng khách cho thấy hắn đã sử dụng
cửa trước”.
“Chốt cửa sổ mà có lẽ hắn ta đã trèo vào bị phá vỡ từ bên trong”.
“Anh X đi vào bằng cửa trước nhà
mình và sau đó dựng hiện trường ở cửa sổ”.
“Không có vết trầy xước nào trên chiếc đàn piano ở
trước cửa sổ, nên anh ta đã đi vào bằng cửa trước”.
“Khi vợ chồng anh ta trở về nhà tối hôm đó, anh ta đã
không cho vợ mình vào trong nhà, anh ta khăng khăng để mình vào nhà và sau đó
quay trở ra và kể những gì anh ta đã nhìn thấy”.
“Cái cửa sổ quá nhỏ để một người đàn ông trèo qua”.
“Khi cậu con trai nhỏ của anh ta được hỏi đêm đó cậu
bé có sợ không, cậu bé trả lời ‘Không, bố cháu ở đó”.
“Khi con của X được hỏi cậu bé nhìn thấy hay nghe thấy
gì đêm xảy ra vụ sát hại, cậu bé trả lời ‘Cháu nhìn thấy một người đàn ông
giống bố cháu’”.
“Cảnh sát tìm thấy bộ quần áo đẫm máu mà anh ta đã mặc
khi giết cô gái”.
“Bộ quần áo anh ta đã mặc được tìm thấy ở dưới tầng
hầm”.
“Tóc anh ta màu vàng như sợi tóc được tìm thấy tại
hiện trường vụ án”.
“Anh ta thay đồ trong phòng tắm nên vợ anh ta không
thể nhìn thấy những vết xước trên người anh ta”.
“Anh ta đi vào bằng cửa trước, và cửa sổ bị đập vỡ
trong lúc vật lộn. Dấu chân của anh ta khớp với dấu chân được tìm thấy”.
Bằng chứng được cung cấp
bởi các cá nhân
bởi các cá nhân
“Thông tin về sự vắng mặt của anh X
được cung cấp bởi một đôi vợ chồng có mặt tại bữa tiệc vào đêm xảy ra vụ sát
hại”.
“Anh X, người thuê người trông trẻ, đã bị vợ mình chỉ
điểm bởi vì anh đã rời khỏi bữa tiệc 1 tiếng rưỡi vào thời điểm vụ sát hại xảy
ra”.
“Anh X bị vợ mình chỉ điểm. Cô không thấy anh ta trong
1 tiếng vào thời điểm vụ án. Cô tìm thấy bộ quần áo đẫm máu của anh ta trong
tầng hầm”.
“Cô X đưa ra đầu mối khiến anh X bị bắt; cô tuyên bố ý
định ‘không bao giờ sống với hắn ta một lần nữa’ do những bất đồng hôn nhân
trước đó”.
“Cô X theo dõi khi anh
ta thay đồ trong phòng tắm và nhìn thấy những vết xước trên người anh ta. Cô đã
trình báo điều này với cảnh sát”. “Vợ anh ta đã bỏ anh ta; cô ấy đã biết
sự thật từ lâu”.
“Vợ hoặc bố vợ đã tố cáo anh ta với cảnh sát”.
“Mẹ anh ta đã tố cáo anh ta với cảnh sát, nói rằng anh
ta là kẻ loạn dâm, và rằng anh ta đã ‘đi quá xa’”.
“Người nào đó ở bữa tiệc đã gửi thư đến cảnh sát tố
cáo sự vắng mặt của anh X”.
Phản ứng của cô X
“Người vợ che đạy cho anh ta, nhưng cô ấy đã đến California
để sinh đứa con thứ hai”.
“Vào ngày tang lễ, anh ta đã đưa vợ về nhà của cô ở Minnesota.
Khi ở đó, cô ấy đã gọi cho linh mục của mình ở Canton và cầu xin ông giúp mình.
Người ta nghi ngờ không biết liệu cô X hay vị linh mục là người chỉ điểm anh X
với cảnh sát. Vì cú sốc khi phát hiện ra cô gái bị sát hại, cô X đã sảy thai”.
“Vợ chồng anh X đã rời khỏi thị trấn cho đến khi mọi
sự trôi qua”.
“Cô X đã về nhà của mình ở Bắc Dakota”.
Cũng có những nguồn nói rằng đó là ở Wisconsin, Texas
và Illinois.
“Vợ anh ta bị suy nhược thần kinh”.
“Cô X đã có thai 4 tháng và đã bị sảy thai”[vi].
“Cô X đã phát điên”.
“Cô X đang ở California, nơi cô ấy đã sinh đứa con
chết yểu do những ảnh hưởng của vụ án đến sức khỏe sinh lý”.
“Vợ anh ta cùng con đã đến nhà mẹ mình ở Wisconsin. Đó
được cho là lý do khiến cô ấy sảy thai”.
“Người ta nói rằng cô X đã mang thai, và cô đã ngất khi chồng mình bị bắt. Cô ấy được
báo là đang ở trong bệnh viện và đã hôn mê khoảng 10 ngày”.
Hình tượng của anh X
“Tôi nghe nói anh ta là kẻ loạn dâm từ hồi còn trẻ”.
“Anh ta là một người vô cùng thông minh, có chứng chỉ
CPA và có năng khiếu âm nhạc”.
“Cô K, dì của cô gái bị giết, học cùng trường với anh
X và nói rằng anh ta là một kẻ kỳ quặc”.
“Vợ anh ta nói rằng
anh ta đã trở nên ‘điên vì gái’ trong suốt 6 tháng qua”.
“Anh X có lần đã phải vào bệnh viện tâm thần”.
“Vợ chồng anh X gần đây chung sống không hòa thuận”.
“Người ta nói rằng anh X là một kẻ nghiện rượu tệ hại
và thích chè chén trong thị trấn”.
“Anh X mắc phải chứng bệnh thần kinh khi đi lính trong
chiến tranh, và dễ thấy anh ta ở trong tình trạng điên rồ”.
“Cuộc hôn nhân của vợ chồng anh X đang trên bờ vực
trong một năm qua. Cô ấy đã nộp đơn ly dị”.
“Anh X bị nghi ngờ dính líu đến vụ án Ferguson xảy ra
5 năm trước”.
“Họ [Vợ chồng X] không hòa hợp trong chuyện chăn gối”.
“Có mối liên quan giữa anh ta và vụ sát hại Ferguson
xảy ra vài năm trước”.
“Anh ta thường rời khỏi bữa tiệc và quay trở lại sau
đó, thế nên không ai thấy hành động của anh ta kỳ lạ”.
“Anh ta say xỉn và không thể giải
thích lý do vắng mặt trong mấy tiếng đó”.
IV
Có thể chủ đề trung tâm - anh X đã cưỡng hiếp và sát
hại cô gái trong lúc vắng mặt khỏi bữa tiệc - phát triển trong quá trình suy
đoán về danh tính của kẻ tấn công. Do chủ đề này xuất hiện đầu tiên, gần như có
thể chắc chắn rằng tin đồn này không hoàn
chỉnh. Trong các phiên bản được thêm thắt, các phiên bản có xu hướng kết nối
câu chuyện với những quan niệm trước đây về các vụ sát hại dường như đi theo
hướng của chủ đề trung tâm ngay lập tức.
Tuy nhiên, đây không chỉ là một trường hợp đơn giản về
những phiên bản được thêm thắt lan truyền nối tiếp nhau trong cộng đồng. Nhiều
người không được nghe phiên bản gốc cho đến khi nó đã bị thêm thắt đáng kể.
Không có lý do gì để tin rằng mỗi phiên bản đặc biệt có nguồn gốc khác nhau và
lan truyền một cách tách biệt khỏi các phiên bản khác[vii] (Gordon W.
Allport và Leo Postman, 1947, tr.116). Tin đồn chắc chắn sẽ được thêm
thắt khi nó được truyền từ người này sang người khác, được thảo luận trong một
loạt các tình huống xã hội, và được lý giải bởi các cá nhân với những mối quan
tâm hay những định kiến đặc biệt.
Việc tin đồn lớn dần trong quá trình lan truyền phụ
thuộc vào quan điểm được sử dụng để giải thích. Sự phát triển này cho thấy sự
phóng đại ngày càng tăng và ngụ ý rằng các chi tiết được giữ lại do các ý tưởng
mới đan xen nhau. Xem xét toàn bộ hiện tượng như một Gestalt của những tin đồn
liên quan đến nhau, có lẽ bắt nguồn từ cùng một nguồn gốc và được khác biệt hóa
thành các chi tiết phong phú, có thể thấy hiện tượng này đã phát triển như một
quả cầu tuyết. Chắc chắn đã có sự tích lũy các chi tiết; cho dù bất kỳ chi tiết
nào đó đã hoàn toàn bị mất trong quá trình lan truyền và không biết được chi
tiết nào được thêm vào.
Nếu coi mỗi một tin đồn cụ thể có một nguồn gốc độc
lập và một “công việc” riêng biệt, thì trường hợp cân bằng, trái ngược với phát
triển, có thể được hỗ trợ rất hiệu quả, chủ yếu bởi vì theo một cách logic, một
tin đồn độc lập, có tính chất đặc thù không thể phát triển. Theo ý kiến của
chúng tôi, khung tham chiếu như vậy sẽ hạn chế khả năng đảm bảo những thông tin
có thể làm sáng tỏ bản chất của tin đồn - nếu tin đồn về cơ bản là một khía
cạnh của dư luận xã hội và nếu việc truyền thông trong xã hội được thực hiện
thông qua các kênh liên tưởng đa phương.
Rõ ràng có xảy ra điều tương tự như những gì Allport
và Postman gọi là “đồng hóa”. Việc có định kiến anh X là mẫu người đàn ông sẽ
phạm những tội ác như vậy; việc miêu tả cô X phản ứng giống như cách một người phụ
nữ sẽ phản ứng khi đối mặt với một tình huống cụ thể; hành vi cáo buộc của cảnh
sát trong vụ án và thẩm vấn anh X - tất cả những điều này có thể được coi là
những biểu hiện của những định kiến văn hóa được đồng hóa vào trong chủ đề
trung tâm, khiến cho toàn bộ cấu trúc trở nên ấn tượng và giật gân hơn, nhưng
không nhất thiết phải “mạch lạc, hợp lý và hoàn hảo” hơn (Gordon W. Allport và Leo
Postman, 1947, tr.101).
Đồng hóa không chỉ đơn giản là “lực hấp dẫn mạnh mẽ tác động lên tin đồn bởi bối cảnh trí tuệ
và cảm xúc hiện hữu trong tâm trí người nghe” (Gordon W. Allport và Leo
Postman, 1947, tr.100). Người nghe - người giải thích - người truyền đạt được
thúc đẩy trong một tình huống xã hội. Từ những thái độ và niềm tin còn lại tiềm
ẩn trong trí nhớ của một người, người ấy chọn một cách có chủ ý hoặc vô thức
những thái độ hoặc niềm tin mà họ xác định là phù hợp với tình huống[viii](Gordon W.
Allport và Leo Postman, 1947, tr.315).
Sự đa dạng của những tình huống xảy ra trong xã hội như vậy gần như đòi hỏi sự
thay đổi về mặt ý nghĩa và tầm quan trọng.
Cơ sở mà các tin đồn sử dụng trong báo cáo này rất
khác so với một tình huống thực nghiệm giả. Vụ án giết - hiếp là thật, chứ
không phải là những sự kiện hư cấu. Công chúng bao gồm những phụ nữ lo lắng về
sự an toàn của họ; những bạn bè, người thân và hàng xóm cảm thông; những người
đàn ông trẻ đã tìm kiếm đầu mối cùng với Đội Vệ binh Quốc gia; và rất nhiều
người quan tâm một cách gián tiếp đến một loạt các hoạt động[ix]. Khi xã hội bao gồm những người với
nhiều những mối quan tâm khác nhau - và điều này xảy ra với gần như mọi xã hội
- bất kỳ sự kiện hay tình huống nào cũng có thể được định nghĩa và diễn giải
một cách đa dạng.
Không có bằng chứng nghiên cứu hiện thời nào về “quá
trình tiết kiệm bộ nhớ”. Dường như có nhiều khả năng những người ít quan tâm
thường sẽ quên các chi tiết, trong khi những người quan tâm sâu sắc sẽ nhớ
chúng, ít nhất là những chi tiết họ coi là quan trọng.
Allport và Postman tổng quát rằng các tên riêng và
chức danh thường bị bỏ qua trong quá trình lan truyền tin đồn. “Trong hầu hết
các thí nghiệm của chúng tôi, tên địa điểm và tên người thường bị lược bỏ hoặc
bị thay đổi không nhận ra được” (Gordon W. Allport và Leo
Postman, 1947, tr.84). Không
có bằng chứng về sự thiếu sót hoàn toàn các tên riêng và chức danh trong các
tin đồn được kiểm tra trong báo cáo này. Trên thực tế, hầu như tất cả những
người được thẩm vấn đều nêu cụ thể tên của những kẻ tấn công bị cáo buộc và các
nạn nhân, và trong nhiều trường hợp, người được thẩm vấn còn nhắc đến cả nơi vợ
chồng anh X đã ở vào buổi tối.
Có thể có xu hướng lược bỏ các tên và chức danh trong
các loại tin đồn cụ thể mà không ảnh hưởng đến nội dung cơ bản của tin đồn;
trong các loại tin đồn khác, tính hiệu quả của tin đồn dường như phụ thuộc vào
khả năng nhớ các chi tiết của người nhận tin. Nếu họ rất quan tâm và cảm xúc
của họ được khơi dậy, họ nhớ lại từng chi tiết nhất định một cách rõ ràng và
chi tiết; họ thậm chí có thể lấy các chi tiết từ những trải nghiệm khác với các
mức độ chính xác khác nhau, và sử dụng nó cho trải nghiệm hiện tại. Ví dụ, một
số người có khuynh hướng đưa những thông tin từ phiên bản gốc của báo đài vào
tin đồn.
Một phần của sự bóp méo có thể được giải thích bởi
thực tế là một người, trong vai trò người lan truyền, có thể quan tâm đến tin
đồn nhiều hơn khi ở trong vai trò người nhận. Thông tin bên trong liên quan đến
một vấn đề dư luận quan tâm đặt một người tạm thời vào một vị trí có uy tín; và
vị trí có uy tín của người lan truyền an toàn hơn nếu như câu truyện được kể nghe
chân thực. Người lan truyền có đủ động lực để quên những chi tiết khiến câu
chuyện trở nên mơ hồ, để nhấn mạnh những chi tiết khiến nó hợp lý, và để đưa
vào những chi tiết chứng thực mới.
Hạn chế lớn trong nghiên cứu thực nghiệm tin đồn và
các hình thức của hành vi tập thể khác nằm ở sự thất bại trong việc tạo, hay
thậm chí kích thích, các trạng thái tạo động lực hòa hợp cảm xúc. Điều này đúng
với cả nhóm thảo luận nhỏ lẫn xã hội[x].
Nghiên cứu tin đồn trong các tình huống không kiểm
soát rõ ràng cho thấy những khó khăn về phương pháp. Tin đồn có vẻ như là một
hiện tượng nhất thời, khó nắm bắt mà không thể được tiếp cận một cách có hiệu
quả theo quan điểm trước đây. Chờ đợi cho đến khi sự quan tâm lắng xuống sẽ làm
mất đi một phần lớn các thông tin cơ bản và gặp nguy cơ hợp lý hóa sau đó.
Các đặc tính cơ bản của tin đồn, ví dụ như yêu cầu quan
sát cẩn thận tại chỗ, ít ra là ở giai đoạn này, tốt nhất là bởi một nhóm các
nhà điều tra. Mặc dù nội dung lý tưởng của tin đồn là thông tin dễ có được nhất
và khách quan nhất ở ngoài mặt, nó không nhất thiết phải liên quan nhất về mặt
xã hội học. Trong cuộc điều tra tin đồn có hệ thống, cần chú trọng đến những
vấn đề như thành phần xã hội, việc xây dựng các tín ngưỡng văn hóa và thái độ
thông qua việc truyền đạt tin đồn[xi], hành vi vai trò trong nhóm thảo
luận tin đồn, và đặc điểm tính cách của những người chuyên lan truyền tin đồn.
Điều đặc biệt quan trọng là sự xuất hiện và truyền đạt
tin đồn được coi là một quá trình. Cần xem xét đến những câu hỏi như liệu có một
chu kỳ tin đồn điển hình liên quan không, hay có lẽ sự hình thành của một cộng đồng
nhờ mối quan tâm chung đến một vấn đề hay sự kiện; cuộc thảo luận tương đối
không tập trung từng bước xác định các đối tượng quan tâm; gia tăng mối quan
tâm và thảo luận; sự xuất hiện của tin đồn; sự phát triển của một tin đồn xã hội
và sự gia tăng tin đồn; sự biến mất của tin đồn xã hội; và sự tái tổ chức thái độ
và niềm tin của xã hội.
(++)
Bản dịch này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa
học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số: I3.4-2011.09.
[i] Để phân tích một cách rất kỹ lưỡng các tin đồn
như một quá trình tập thể, xem “Sự lưu hành tin đồn dưới dạng hành vi tập thể”
của Tamotsu Shibutani (luận văn tiến sĩ chưa được xuất bản, Đại học Chicago,
1940).
[ii] Khi có tình trạng bất ổn
xã hội chung những tin đồn liên quan đến một loạt các vấn đề hoặc những tin đồn
xác định các vấn đề hư cấu có thể xuất hiện. Trong trường hợp này, chính sự kiện
đó sẽ đóng vai trò như là một sự kiện tạo ra công chúng.
[iii] Để thảo luận về những đặc điểm quan trọng
của dư luận xã hội và các tác động phương pháp học, xem Herbert Blumer, “Dư luận
xã hội và thăm dò dư luận xã hội”, Tạp chí Xã hội học Mỹ, XIII (1948),
542-549; Alfred McClung Lee, “Dư luận xã hội trong quan hệ với văn hóa”, Tạp
chí Tâm thần, XIII (1945), 49-61; và Carroll D. Clark, “Khái niệm về công
chúng”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nam hàng quý, XIII (1933), 1-18.
[iv] Để
thảo luận chi tiết hơn về khía cạnh này của tin đồn, xem: Leon Festinger và các
tác giả khác, “Nghiên cứu về tin đồn: Nguồn gốc và sự lan truyền”, Quan hệ
con người, I (1948), 464-486.
[v] Dĩ
nhiên, các thông tin này không có mẫu đại diện cho những tin đồn đang lan truyền
lúc bấy giờ; không nhất thiết phải có tất cả các tin đồn đang lan truyền trong
cộng đồng. Không bao gồm các trùng lặp thực sự của những tin đồn được đưa ra ở đây.
[vi] Thông tin cô X mang thai là đúng. Tuy
nhiên, cô ấy được dự sinh vài tháng sau đó.
[vii] Cũng
có vẻ như không thể xảy ra trường hợp chủ đề trung tâm bắt nguồn từ kinh nghiệm
cảm nhận về một sự kiện do khoảng thời gian trôi giữa vụ sát hại và các tin đồn.
Lập trường của Allport và Postman là “hầu hết các tin đồn bắt đầu là một báo
cáo về một tình tiết thực tế - tức là, với kinh nghiệm cảm nhận của một ai đó về
một sự kiện...”.
[viii] Một ý kiến, trong trường hợp của một người, là một sản phẩm
của: ‘quan điểm’ cụ thể gợi ra ý kiến; nền tảng văn hóa của người đó, vì nó có
liên quan đến quan điểm và giá trị của nó phụ thuộc vào tình hình hiện tại, bao
gồm nhất là các sự cố sống động gần đây liên quan đến ‘quan điểm’; và trải nghiệm
của riêng cá nhân, cho đến mức độ khác nhau của chúng so với những trải nghiệm
thông thường của các nhóm và xã hội của người đấy.
[ix] Việc
Sở Cảnh sát kêu gọi người dân tố cáo bất kỳ nam giới nào có vết xước hoặc vết cắt
trên mặt hoặc tay khiến cho tất cả đàn ông và các nam thanh niên trở thành đối
tượng khả nghi và có xu hướng làm tăng sự lo lắng, đặc biệt sau khi các báo cáo
về những người vô tội đã bị bắt giữ và thẩm vấn được lưu hành.
[x] Allport và Postman không rõ ràng trong vấn đề
này. Họ nói rằng các tin đồn “trong nhà” “có thể không sống động hay nghe
xúc động, nhưng chúng đều cùng giống nhau về mặt tâm lý.
[xi] Hơn cả tầm quan trọng về mặt hàn lâm là vấn đề
liệu niềm tin và thái độ được xây dựng trong giai đoạn quan tâm sâu sắc có được
thay thế một cách có hiệu quả bởi sự bác bỏ, mà thường đi cùng với việc giảm sự
quan tâm không.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1.
Herbert
Goldhamer (1950), “Dư luận xã hội và tính cách”, Tạp chí Xã hội học Mỹ, LV, p.346-354.
2.
Gordon
W. Allport và Leo Postman (1947), Tâm lý học tin đồn, Nxb. Henry Holt & Co., New
York.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét