Bài đăng nổi bật

Việt Nam nhìn từ Chủ thuyết phát triển

Thứ Năm, 18 tháng 3, 2021

Tính lợi ích trong dư luận xã hội vùng dân tộc thiểu số và vấn đề vận dụng trong định hướng dư luận xã hội(*)

 


Phan Tân, Bùi Minh Hào, Lê Thị Hồng Nhung

Tạp chí KHXH miền Trung, số 05(67)-2020 

Tóm tắt

Tính lợi ích là một tính chất quan trọng của dư luận xã hội (DLXH). Dù trên cấp độ cá thể hay nhóm, cộng đồng, thậm chí là quốc gia, DLXH cũng luôn chịu sự ảnh hưởng của tính lợi ích. Mỗi cá nhân hay nhóm xã hội đều luôn cố gắng điều khiển, định hướng các luồng DLXH theo chiều hướng có lợi cho mình. Nhưng lợi ích giữa các cá nhân và các nhóm không phải bao giờ cũng đồng nhất với nhau nên có thể này sinh những “va chạm lợi ích” trong quá trình trao đổi, thảo luận, bàn bạc để hình thành DLXH, thực tế cho thấy, cùng một vấn đề, sự kiện, hiện tượng xã hội lại có những luồng ý kiến, dư luận khác nhau. Dựa vào phương pháp tiếp cận định tính vùng dân tộc thiểu số, bài viết này muốn góp phần chứng minh tính lợi ích trong xã hội rất đa dạng nên DLXH cũng đa chiều và không phải khi nào cũng có thể định hướng DLXH theo một chiều hướng nhất định. Và qua đó cũng mở ra những phương pháp định hướng DLXH qua việc phân tích tính lợi ích, điều hòa lợi ích của các bên liên quan.

Từ khóa: Dư luận xã hội; tính lợi ích; hài hòa lợi ích; dân tộc thiểu số;

 

Benefit in public opinion in ethnic minority areas and applying issues in public opinion orientation

Abstract: Benefit is an important feature of public opinion. Whether on the individual, group, community or even nation level, public opinion is always influenced by benefit. Each individual or social group always tries to control and direct the flow of public opinion in a direction for his benefit. But the benefit between individuals and groups are not always identical, so there may be “conflicts of benefit” in the exchange and discussion to form social opinion. In fact, the same problem, event, and social phenomenon have different flows of public opinion. Based on the qualitative research on public opinion of ethnic minorities, this article contributes to prove that because the benefit in society are so diverse, public opinion is also multidimensional and cannot be directed by one certain way. Thereby, the article also opens up methods to orient the public opinion by analyzing the benefit, harmonizing the benefit of stakeholders.

Keywords: Public opinion; benefit: harmonizing the benefit; ethnic minority

 

1. Đặt vấn đề

DLXH là một phương diện thể hiện các quan điểm và nhận thức về hiện thực xã hội của con người. Dù phản ánh thế nào đi chăng nữa thì DLXH luôn có những giá trị nhất định trong việc cải tạo xã hội theo hướng tích cực hơn. Vậy nên DLXH cần được nghiên cứu nghiêm túc và sâu rộng để góp phần vào việc định hướng phát triển đất nước cũng như nhận thức và giải quyết những vấn đề bất cập trong xã hội được nhiều người quan tâm.

Từ nhiều năm nay, DLXH đã được nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực như báo chí, xã hội học, nhân học, chính trị học,... quan tâm và nghiên cứu. Với nhiều góc độ khác nhau, các nghiên cứu về DLXH đã góp phần làm cho con người nhận thức rõ hơn về hiện thực cuộc sống, về các vấn đề bất cập được người dân phản ảnh. Qua đó góp phần vào việc cải tạo xã hội và xây dựng đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nhưng nghiên cứu về DLXH tập trung chủ yếu vào đối tượng là người Kinh ở vùng miền xuôi nhiều hơn, còn với các đối tượng ở vùng DTTS thì vấn đề này vẫn còn chưa được quan tâm nhiều. DLXH vùng DTTS hình thành trong những bối cảnh văn hóa riêng biệt của các cộng đồng DTTS nên cũng có những tính chất riêng biệt. Đối với nước ta, một quốc gia đa dân tộc thì phát triển vùng DTTS là một vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều. Để định hướng phát triển vùng DTTS một cách phù hợp và hiệu quả thì cần nắm bắt được ý kiến, quan điểm, suy nghĩ của người dân về những vấn đề liên quan đến cuộc sống của họ. Tức là cần quan tâm đến các vấn đề DLXH vùng DTTS. Không chỉ nắm bắt mà còn phải nghiên cứu, lý giải các vấn đề DLXH ở vùng dân tộc nhằm vào mục đích định hướng DLXH trong quá trình phát triển.

Trong các yếu tố ảnh hưởng đến DLXH thì tính lợi ích có một vai trò quan trọng. Tính lợi ích có tác động mạnh mẽ đến DLXH vùng DTTS. Vậy nên, để hiểu rõ hơn về DLXH vùng DTTS, cần quan tâm nghiên cứu đến vấn đề tính lợi ích trong DLXH. Đó cũng là vấn đề cơ bản được đặt ra trong bài viết này.

2. Bối cảnh nghiên cứu

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính lợi ích và hành vi con người trong DLXH được đặt trong bối cảnh thực hiện một đề tài nghiên cứu rộng lớn về DLXH vùng DTTS ở Việt Nam. Đây là một chương trình nghiên cứu liên ngành, trong đó kết hợp cả nghiên cứu định tính và khảo sát định lượng xã hội học. Tuy nhiên, về cơ bản, những gì trình bày trong bài viết này chủ yếu mang tính định tính nhiều hơn là định lượng, chủ yếu dựa vào kết quả phỏng vấn người dân liên quan cũng như những trao đổi với một số nhà nghiên cứu quan tâm.

Xét trên một góc độ nào đó, DLXH cho đến đầu thế kỷ XXI vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam. Vẫn chưa có nhiều người xem DLXH như là một lĩnh vực, một vấn đề cần nghiên cứu. Phần lớn xem nó như là một phần trong công việc của những người làm tuyên giáo, vốn là những người xem DLXH như là đối tượng để theo dõi, điều chỉnh, định hướng và giải quyết. Người ta quên mất rằng, DLXH là một hiện thực xã hội, nó tồn tại mãnh liệt và chịu tác động của nhiều yếu tố. Việc định hướng DLXH được nhiều thể chế chính trị quan tâm nhưng không phải khi nào cũng thành công. Bởi xét cho cùng, đó là một hiện thực xã hội. Trong vài năm gần đây, DLXH đã vượt qua ngoài mối quan tâm của báo chí lẫn tuyên giáo, trở thành một đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội. Điều đó cũng thể hiện khuynh hướng đa dạng hóa trong tiếp cận nghiên cứu khoa học xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh hiện tại. Tuy nhiên, nghiên cứu DLXH vùng DTTS vẫn còn là vấn đề mới mẻ, và những công bố khoa học về vấn đề này vẫn còn khiêm tốn. Trong bối cảnh kinh tế xã hội và văn hóa vùng DTTS đang thay đổi mạnh mẽ, nó đặt ra nhiều vấn đề phải quan tâm.

Trong bối cảnh đó, chúng tôi đã thực hiện một chương trình nghiên cứu liên ngành về DLXH vùng dân tộc xã hội. Nghiên cứu này được tiến hành trên một không gian rộng lớn với nhiều tỉnh thành ở các vùng khác nhau trên cả nước. Đối tượng cũng đa dạng với sự tham gia của nhiều DTTS khác nhau. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với nhiều đối tượng khác nhau liên quan đến DLXH về các vấn đề quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của họ. Qua những phỏng vấn kết hợp với quan sát, thảo luận nhóm của nhiều người, nhiều nhóm liên quan, chúng tôi đi sâu phân tích sự tác động, chi phối của tính lợi ích trong DLXH ở một số vùng DTTS.

3. Tính lợi ích trong dư luận xã hội vùng dân tộc thiểu số

3.1. Tính lợi ích và hành vi con người

Tính lợi ích, tính vị lợi hay tư lợi với hành vi con người có mối quan hệ khăng khít. Mối quan hệ này được nhiều lĩnh vực khoa học xã hội xem là đối tượng nghiên cứu, cũng từ đó mà hình thành nên nhiều trường phái khoa học trong lịnh sử. Điều đó đủ để chứng minh vai trò quan trọng của mối quan hệ này trong đời sống xã hội. Xét cho cùng, tính lợi ích là một vấn đề quan trọng của cuộc sống con người, vì nó đảm bảo cho cuộc sống của con người theo một định hướng, mục tiêu nhất định nào đó, do đó hành vi con người luôn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố lợi ích.

Trong lịch sử nghiên cứu, đã có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tính lợi ích và hành vi con người Quan điểm nhấn mạnh đến vai trò chi phối của tính lợi ích đối với hành vi con người đã từng rất phổ biến và hình thành cả trào lưu rộng lớn là chủ nghĩa vị lợi với nhiều trường phái khác nhau. Một trong những học giả có ảnh hưởng lớn trong chủ nghĩa vị lợi là triết gia người Anh Jeremy Bentham (1748-1832) đã nhấn mạnh: “Nguyên tắc chính của sự hữu ích là nó ủng hộ hay không ủng hộ của mỗi hành động bất kể khuynh hướng của nó có thể làm tăng hoặc giảm niềm hạnh phúc của một nhóm người mà niềm hứng thú của họ vẫn là một câu hỏi: hay, tất cả những gì giống như vậy nhưng có tên gọi khác ủng hộ hay chống lại niềm hạnh phúc đó. Tôi nói về mọi hành động bất kể nó là gì, và vì vậy không chỉ riêng đối với hành động của từng cá thể tư nhân mà còn là mọi biện pháp của một chính phủ” (Bentham, 2009: 1).

Quan điểm của chủ nghĩa vị lợi cũng được John Stuart Mill (1806-1873) phát triển thành các nguyên tắc của tính lợi ích hay sự hữu ích: “Nguyên lý của sự lợi ích không có nghĩa là bất cứ điều gì mang đến sự thỏa mãn, ví dụ âm nhạc, hay bất kì cái gì giúp chúng ta tránh sự đau đớn, ví dụ như sức khỏe tốt, được xem là phương tiện đưa tới cái gì đó gọi chung là hạnh phúc, và con người mong muốn cái lợi ích đó. Chúng được ham muốn và có thể được ham muốn trong và vì chính nó; bên cạnh việc là phương tiện, chúng còn là một phần của mục đích. Đạo đức, dựa theo chủ nghĩa vị lợi, không mang bản chất tự nhiên và cơ bản của mục đích, nhưng nó có thể trở nên như vậy; và trong những con người yêu đạo đức một cách tha thiết thì đạo đức trở thành một mục đích, được yêu mến và nâng niu, không phải là một phương tiện để tìm hạnh phúc, mà là một phần hạnh phúc của họ” (John Stuart Mill, 1998).

Nhìn chung, những người theo chủ nghĩa vị lợi đã nhận thấy vai trò của tính lợi ích trong cuộc sống của con người, và cũng công nhận nó chi phối đến các hành vi con người, nhưng lại xem xét nó dưới góc độ đạo đức học. Một trường phái khác chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa vị lợi trong việc xem xét mối quan hệ giữa tính lợi ích và hành vi con người là chủ nghĩa thực dụng, vốn phổ biến ở Mỹ và một số nước khác. Chủ nghĩa thực dụng nhấn mạnh đến vai trò quyết định của lợi ích đối với hành vi con người. Nhưng ở góc độ khác, chủ nghĩa thực dụng không phủ định việc con người cũng cần phải hài hòa lợi ích để phù hợp với xã hội. Nhìn chung, chủ nghĩa vị lợi hay chủ nghĩa thực dụng đều nhấn mạnh đến vai trò của tính lợi ích đối với hành vi con người, và xem tính lợi ích như là một động lực, một mục tiêu của hành vi con người.

Trong khi đó, những người chịu ảnh hưởng của quan điểm Mác-xít khi xây dựng chủ nghĩa xã hội có công nhận vai trò của tính lợi ích đối với hành vi con người, nhưng lại hướng nó thành mục tiêu để phê phán khi họ cho rằng sự vị lợi làm cho con người trở nên xấu xa hơn. Để hướng đến xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ lấy lợi ích tập thể làm nòng cốt, người ta đặt các mũi nhọn đấu tranh vào lợi ích cá nhân nhằm triệt tiêu nó. Và kết quả là, các nước xã hội chủ nghĩa đã phải cải cách, đổi mới, hướng đến hài hòa về lợi ích nhưng cũng đề cao lợi ích cá nhân. Sự đổi mới đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Nó góp phần chứng minh rằng trong bối cảnh bình thường, hành vi của con người chịu ảnh hưởng của tính lợi ích; người ta hành động khi tìm thấy lợi ích hợp pháp của mình.

Trong khi các nhà triết học vẫn quy mối quan hệ giữa hành vi con người và tính lợi ích về phạm trù đạo đức để xem xét, thì các nhà nhân học lại lựa chọn con đường khác. Nhân học xem xét mối quan hệ giữa tính lợi ích và hành vi của con người như là một hiện thực xã hội mà trong đó con người thực hiện các hành vi của mình để tìm kiếm lợi ích cơ bản, sau đó đóng góp vào lợi ích cộng đồng. Nhân học cũng xem tính lợi ích và hành vi con người trong mối quan hệ nhân quả với nhau thông qua các hoạt động kiếm sống. Khi tìm kiếm các điều kiện cơ bản của sự sống, chẳng có gì thôi thúc con người hành động bằng tính lợi ích. Bởi họ phải sống trước khi nghĩ đến những vấn đề khác. Nhưng các nhà nhân học không quy nạp thành các mô hình mà tôn trọng sự đa dạng của các đối tượng khi xem xét mối quan hệ này. Họ tiếp cận nghiên cứu những đối tượng khác nhau và đưa ra những kết luận, luận điểm dựa vào hệ thống dữ liệu mà họ vừa thu thập được, vừa tạo ra chúng.

Nhìn chung, dù xem xét trên góc độ nào thì tính lợi ích luôn có tác động mạnh mẽ đến hành vi con người. Và đây cũng là mối quan hệ tương tác qua lại với nhau. Tính lợi ích là động lực, là mục tiêu để con người hành động. Và ngược lại, hành động của con người cũng quyết định đến tính chất của tính lợi ích. Qua những câu chuyện cụ thể được thu thập từ quá trình nghiên cứu thực địa trong khuôn khổ Đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về DLXH vùng DTTS trong bối cảnh toàn cầu hóa, bài viết thảo luận về những hành vi của con người khi ứng xử với DLXH dưới tác động của tính lợi ích.  

3.2. Tính lợi ích trong DLXH qua một số lĩnh vực đời sống xã hội

Dư luận xã hội là vấn đề rộng lớn, đa dạng, đa chiều và phức tạp, nên để đi sâu phân tích tác động của tính lợi ích trong DLXH, chúng tôi chỉ phân tích được một số vấn đề quan trọng như: DLXH về tranh chấp đất đai; DLXH về vấn đề tôn giáo; DLXH về vấn đề hộ nghèo và chính sách liên quan; DLXH về vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển. Đây cũng là những vấn đề được chúng tôi quan tâm nhiều trong quá trình nghiên cứu thực địa.

Câu chuyện thứ nhất liên quan đến vấn đề đất đai. Đất đai một vấn đề vô cùng quan trọng và cũng luôn nhạy cảm, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Đối với người dân vùng DTTS, đất đai là tài nguyên quan trọng để sinh sống, và đó cũng là một trong những thứ tài sản giá trị đối với họ. Trong lịch sử cũng đã chứng minh nhiều sự kiện lớn làm thay đổi thể chế chính trị bắt nguồn từ việc sở hữu và kiểm soát đất đai, nhất là sự việc liên quan đến người nông dân. Khi khảo sát về DLXH ở một địa phương thuộc huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, chúng tôi cũng ghi nhận được những vấn đề liên quan đến đất đai.

Đó là câu chuyện của những người Xtiêng sinh sống trong một thôn nghèo. Trong thôn có khoảng dăm chục hộ gia đình sinh sống quây quần trong một không gian hẹp, dưới những tán cây điều già. Ban đầu người dân trong thôn khá cảnh giác với người lạ và tỏ ra dè dặt khi tiếp xúc. Sau khi một số người trò chuyện về những mối quan tâm, bức xúc của họ thì nhiều người khác cũng theo dõi và cởi mở hơn trong việc chia sẻ thông tin. Trong đó hầu hết mọi người đều bày tỏ sự bức xúc về vấn đề đất đai. Trước đây, họ chủ yếu canh tác xung quanh thôn và các khu vực gần đó. Nhưng vài năm trở lại đây, do dân số ngày càng tăng lên nên diện tích đất bị thu hẹp dần và trở nên thiếu thốn. Những khu đất gần cũng đã có chủ nên họ phải đi khai khẩn những mảnh đất mới cách thôn hơn 20 km để trồng cây, chủ yếu là cây điều. Ban đầu, công việc thuận lợi và phần lớn các gia đình đều có một mảnh rẫy mới, có gia đình lên đến 4-5 ha. Nhiều gia đình đã bắt đầu có thu hoạch. Cách đây vài năm, có một doanh nghiệp muốn mua lại khu vực đất, trong đó có phần đất do người dân mới khai khẩn được. Nhà nước tiến hành thu hồi để bán lại cho doanh nghiệp mà không đền bù cho người dân vì họ cho rằng người dân không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Còn người dân cũng không chấp nhận vì họ cho rằng xưa nay cha ông họ cũng đi khai khẩn những vùng đất chưa thuộc về người khác để làm ăn, và khi gia đình nào khai phá được thì dĩ nhiên thuộc về họ. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi người dân chặn xe không cho chính quyền vào khu đất của họ và nhiều người trong thôn bị bắt đi. Mọi việc dần lắng xuống khi người dân bất lực trong việc đòi đất đai cũng như đòi đền bù.

Từ câu chuyện này, nhiều vấn đề liên quan đến DLXH đã xuất hiện. Trong thôn lan truyền thông tin rằng chính quyền nhà nước đã “ăn tiền” của doanh nghiệp và cướp đất của họ để giao cho doanh nghiệp dù thật ra thì họ cũng không có bằng chứng cụ thể cho vấn đề đó. Nhưng họ vẫn bàn tán, thảo luận về điều này mỗi khi có cơ hội và nhiều khi còn thể hiện gay gắt. Khi chúng tôi đang trao đổi với một người thì nhiều người khác cũng quây quanh lại để thể hiện bức xúc của mình. Với người dân, nhà nước phải để khu đất đó cho họ canh tác, hoặc phải đền bù cho họ thỏa đáng nếu thu hồi. Ban đầu, những bức xúc này từ một số người, nhưng dần lan rộng ra và thành nỗi bức xúc của cả cộng đồng. Ngay cả những gia đình không tham gia vào việc khai khẩn đất đai đã bị thu hồi này cũng đồng ý với sự bức xúc đó.

Trong khi đó, theo chính quyền địa phương thì vấn đề không phải vậy. Chính quyền cho rằng việc người dân đi khai khẩn đất chỗ khác mà chưa được phép là sai. Khi nhà nước có quy hoạch, chính quyền phải thu hồi đất để bàn giao cho doanh nghiệp và đền bù cho các chủ đất. Nhưng chỉ đền bù cho những chủ đất được nhà nước công nhận, có giấy tờ đầy đủ. Còn những người dân không có giấy tờ sử dụng đất thì không được đền bù. Tuy nhiên, do một số người xúi giục nên người dân đã kiện cáo rồi ngăn cản người thi hành công vụ, do đó phải xử lý mạnh hơn vì sợ người dân sẽ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động để chống chính quyền. Chính quyền làm như vậy là vừa đảm bảo được việc thu hồi đất và đền bù cho chủ đất hợp pháp, vừa ngăn cản những hành vi chống đối chính quyền.

Như vậy, cùng một vấn đề nhưng có hai luồng ý kiến dư luận khác nhau nhằm đảm bảo lợi ích cho hai nhóm khác nhau.

Câu chuyện thứ hai liên quan đến vấn đề tôn giáo. Khi chúng tôi tiến hành khảo sát một ấp ở một địa phương thuộc huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước đã ghi nhận được nhiều thông tin chia sẻ của người dân ở đây về vấn đề tôn giáo. Ấp này từng là điểm nóng về tôn giáo do có nhiều người theo đạo Thiên Chúa. Từng có thời gian chính quyền đã đàn áp và bắt bớ nhiều người dân vì họ cải đạo theo Thiên Chúa, gây nên những mâu thuẫn trong nội bộ địa phương. Nhất là giữa những người theo đạo với chính quyền và cả với những người không theo đạo.

DLXH ở đây rất bức xúc. Những người theo đạo Thiên Chúa cho rằng họ không làm trái pháp luật và cũng không bị ai chia rẽ, tác động. Họ cải đạo vì họ thấy phù hợp với niềm tin, phù hợp với cuộc sống tinh thần cũng như nhu cầu tâm lý của họ. Thế nên họ phản ứng mạnh khi chính quyền có động thái trấn áp, bắt người dân vì cải đạo. Trong khi đó, chính quyền lại cho rằng những người cải đạo là không tốt, họ làm vậy chẳng khác gì chống phá nhà nước. Theo những người quản lý, việc người dân theo đạo Thiên Chúa có khả năng là do các thế lực phản động lôi kéo, kích động để chống phá nhà nước. Những dư luận như vậy cũng tác động đến một số người không theo tôn giáo, làm cho họ nhìn những người theo đạo Thiên Chúa bằng ánh mắt khác.

Sau nhiều năm căng thẳng, cuối cùng chính quyền cũng nhận thức lại và chấp nhận vấn đề này, cho phép người dân tự do hơn trong việc theo các tôn giáo phục vụ cuộc sống tinh thần. Nhưng những bất đồng giữa những người theo tôn giáo và nhiều người còn lại trong địa phương vẫn chưa dứt.

Những câu chuyện liên quan đến tôn giáo ở vùng DTTS không chỉ có ở một vài địa phương mà luôn là vấn đề nhạy cảm của nhiều địa phương, nhiều vùng trong cả nước. Những vấn đề như ở Lộc Ninh, về mặt DLXH, ở góc độ nào đó cũng có sự ảnh hưởng của tính lợi ích. Người ta luôn cố gắng đưa ra những dư luận có lợi cho mình và nhóm của mình.

Câu chuyện thứ ba liên quan đến vấn đề chính sách hộ nghèo. Trong nhiều năm trở lại đây, Nhà nước rất coi trọng việc hỗ trợ các hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo ở vùng DTTS để giúp người dân cải thiện cuộc sống. Đây cũng được xem là một chiến lược để ổn định xã hội, hạn chế bất bình đẳng trong đời sống kinh tế. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ cũng làm cho “hộ nghèo” trở thành một thứ tài sản, một thứ lợi ích mà nhiều người tranh giành lẫn nhau. Đây là hiện tượng phổ biến ở gần như cả nước chứ không chỉ vùng DTTS. Ở những thôn xóm người Kinh vùng đồng bằng cũng có tình trạng tranh giành chế độ hộ nghèo, thậm chí là chạy chọt để được hưởng chế độ hộ nghèo. Dư luận về việc công nhận hộ nghèo cũng như những bức xúc của người dân về vấn đề này đối với chính quyền cũng như với những người khác tương đối phổ biến ở hầu hết các địa phương mà chúng tôi khảo sát.

Ở một buôn thuộc một địa phương ở huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk, chúng tôi được chứng kiến những ý kiến trái chiều từ nhiều người liên quan đến vấn đề hộ nghèo. Những gia đình đang được hưởng chế độ hộ nghèo thì cho rằng họ xứng đáng; trong khi đó, nhiều người khác vì ghen gét, đố kỵ nên đặt điều rằng họ vì thân với cán bộ mà được công nhận hộ nghèo. Có người sau nhiều năm nhận chế độ hộ nghèo nhưng không chịu thoát nghèo, đến khi chính quyền không cho nữa thì lại kêu xin: “Tôi có làm gì sai đâu mà buôn xã lại cắt hộ nghèo của tôi” – một người phụ nữ ở đây đã nói như vậy với nhiều người khi bàn luận đến chuyện hộ nghèo. Còn với nhiều hộ không/chưa được công nhận hộ nghèo, họ lại cho rằng do buôn và xã làm không minh bạch, rằng nhiều gia đình có điều kiện kinh tế giàu hơn họ nhưng vẫn được hộ nghèo mà họ thì không. Họ cho rằng cán bộ thôn không công bằng, cán bộ giúp đỡ cho anh em, họ hàng mình được nhận chế độ hộ nghèo. Thậm chí có người còn nói muốn được hộ nghèo phải mời cán bộ đi ăn uống, hay đến tặng quà cho cán bộ mới được giúp đỡ. Còn cán bộ buôn làng, khi nói đến chuyện này, đều cho rằng người dân quá tham lam. Việc công nhận hộ nghèo được bình xét và chấm điểm công khai nên mọi người phải chấp nhận. Ai được nhận chế độ thì phải cố gắng để thoát nghèo và nhường chế độ cho gia đình khác khó khăn hơn. Rõ ràng, xem xét dưới góc độ của DLXH thì những dòng ý kiến này đều hướng đến lợi ích và bảo vệ lợi ích của mình.

Câu chuyện thứ tư liên quan đến vấn đề chính sách hỗ trợ phát triển. Khi chúng tôi khảo sát một địa phương là địa bàn sinh sống của người Raglai ở huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận, nhiều người dân trong thôn rất bức xúc về việc thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn mua bò cho các gia đình khó khăn.

Để giúp đỡ các gia đình khó khăn cải thiện đời sống kinh tế, Nhà nước đã quyết định hỗ trợ cho một số gia đình mua giống vật nuôi, mỗi hộ được hỗ trợ 20 triệu đồng để mua bò về chăn nuôi, trong đó gồm 5 triệu hỗ trợ không hoàn lại và 15 triệu là tiền cho vay không lãi qua ngân hàng chính sách. Việc này được giao cho Mặt trận Tổ quốc huyện thực hiện. Thay vì giao tiền cho người dân tự mua thì Mặt trận Tổ quốc đã làm việc với doanh nghiệp bò giống và mua một số lượng lớn, sau đó tổ chức cho các hộ gia đình bắt thăm để nhận bò. Sau một thời gian, người dân cho biết có nhiều con bò bị ốm và chết, nhiều con khác nuôi mãi cũng không phát triển. Khi bò ốm, họ gọi cho những người liên quan nhưng không ai hỗ trợ giải quyết. Có những con bò bị chết.

Từ đó, người dân cho rằng Mặt trận Tổ quốc huyện đã cấu kết với doanh nghiệp lừa họ khiến họ phải mắc một khoản nợ 15 triệu sau khi bò bị chết. Theo người dân, đáng ra Mặt trận Tổ quốc phải đưa tiền cho họ tự mua, hoặc cho họ đi cùng để lựa chọn bò có giá trị tương đương với số tiền đó, nếu được như vậy thì dù chất lượng bò thế nào họ cũng chịu trách nhiệm. Trong khi đó, Mặt trận Tổ quốc huyện lại cho rằng, họ làm như vậy là đúng, rằng nếu đưa tiền cho người dân mà người tiêu hết rồi không mua được bò thì như vậy Mặt trận Tổ quốc lại làm trái chính sách. Còn việc bò do Mặt trận Tổ quốc mua mà bị chết là do người dân không biết cách chăm sóc, không chịu khó chăm. Những ý kiến trái chiều như vậy khá phổ biến ở đây, hình thành nên một thuật ngữ mang tính châm biếm là “bò mặt trận”.

Như vậy, có thể thấy rõ những ảnh hưởng của tính lợi ích trong các luồng ý kiến trái chiều này.

4. Vận dụng tính lợi ích trong định hướng DLXH

Quay lại với cuộc tranh luận của J.Scott và S. Popkin về người nông dân châu Á kéo dài hơn bốn thập kỷ qua, đây thực chất là một cuộc tranh luận về phẩm chất, tính cách của người nông dân ở châu Á là duy/hợp tình hay duy/hợp lý. Khi phân tích các dữ liệu nghiên cứu liên quan đến người nông dân ở Việt Nam, trong đó có vấn đề phong trào nông dân xô viết Nghệ Tĩnh những năm 1930-1931, nghiên cứu của Scott (1976) đưa ra mệnh đề “sự an toàn là trên hết” để chỉ bản chất của người nông dân ở châu Á. Quan điểm này được các nhà kinh tế học đạo đức ủng hộ, họ xem những người nông dân như là những người duy tình/hợp tình/trọng tình. Ngược lại, S. Popkin (1979) tiếp cận các nhóm đối tượng khác và đưa ra quan điểm trái ngược với Scott khi cho rằng người nông dân ở châu Á rất duy lý/trọng lý khi luôn biết tính toán làm sao để theo đuổi lợi nhuận cao nhất cho bản thân, cho gia đình.

Cuộc tranh luận này tạo ra nguồn cảm hứng cho một loạt các nghiên cứu nhân học ở châu Á (và Việt Nam). F. Ellis (1993) với quan điểm kinh tế học nông nghiệp, mở rộng thêm quan điểm kinh tế đạo đức của J. Scott về người nông dân châu Á. Tiếp theo đó, Jennifer Sowerwine (2008) từ một nghiên cứu cụ thể hơn về người Dao ở vùng núi Ba Vì (Hà Nội) tiếp tục củng cố quan điểm về tư duy kinh tế hợp tình mà J. Scott đặt ra.

Nói chung, ở nhiều cách tiếp cận khác nhau cả về quan điểm, phương pháp và quy mô khảo sát, vấn đề vốn con người của các cộng đồng đã được các nhà nghiên cứu quy về các khung mẫu khác nhau. Tuy nhiên, những cuộc tranh luận này càng làm rõ thêm về sự ảnh hưởng tính lợi ích đến hành vi con người. Đương nhiên, tính lợi ích không chỉ được hiểu bó hẹp vào những lợi ích cá nhân ích kỷ mà phải hiểu rộng ra là những gì có lợi mà chủ thể muốn thực hiện, bao gồm cả lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng và lớn hơn là lợi ích chung của nhân loại. Trên cơ sở đó, xin được thảo luận thêm vài ý kiến về những câu chuyện liên quan đến tính lợi ích trong DLXH đã trình bày ở trên.

Trước hết, qua những câu chuyện trên có thể thấy, nhiều khi DLXH được kiến tạo ra để tìm kiếm lợi ích cho những cá nhân hay nhóm nhất định. Với cùng một sự việc, một vấn đề nhưng có thể có nhiều ý kiến khác nhau. Thông thường, các nhóm có lợi ích đối lập sẽ tạo ra những dư luận có lợi cho mình và đẩy nguyên nhân gây rắc rối về phía bên kia. Chưa tính đến bản chất vấn đề thực sự ra sao, nhưng những người liên quan thường đưa ra ý kiến, quan điểm có lợi cho bản thân và nhóm của mình. Điều này cũng có thể do đó là góc nhìn mang tính lợi ích của họ, cũng có thể do họ thực sự nhận thức vấn đề như vậy. Người dân cũng biết cách tạo ra dư luận thông qua những cuộc trò chuyện, trao đổi với nhau và đưa ra các ý kiến của mình sao cho có lợi nhất. Và họ cũng không ngừng chia sẻ để ý kiến đó tác động đến nhiều người. Ở chiều ngược lại, những người có lợi ích đối kháng cũng không chấp nhận điều này, họ cũng tìm cách tạo ra những dư luận truyền tải ý kiến bảo vệ lợi ích cho mình. Trong trường hợp đó, lợi ích vô hình trung đã chi phối đến DLXH.

Thứ hai, nếu lợi ích chi phối đến DLXH thì người ta cũng không ngừng tìm cách kiểm soát DLXH để bảo vệ lợi ích của mình. Không chỉ cá nhân hay một nhóm, mà cả các quốc gia cũng luôn hướng đến việc kiểm soát DLXH, thực chất là để bảo vệ quyền lợi, lợi ích của những bộ máy chính trị. Ví dụ như trong câu chuyện về đất đai ở huyện Bù Đăng, người dân luôn củng cố ý kiến của mình là đúng khi lập luận rằng cha ông họ ngày trước đi khai khẩn đất hoang để canh tác, sau này mới có điều kiện để làm giấy tờ chứng nhận, và họ cho rằng sau khi đã khai hoang thì đất đó nghiễm nhiên thuộc về họ, Nhà nước thu hồi đất này mà không đền bù là không thoả đáng. Trong khi đó, chính quyền cũng bảo vệ quan điểm của mình, cho rằng chỉ đền bù đất đai khi có giấy tờ chứng nhận chủ đất từ người dân. Công cụ để chính quyền bảo vệ lợi ích và kiểm soát dư luận chính là pháp luật và bộ máy tổ chức nhà nước. Sau đó, về lâu dài, người dân cũng phải lắng xuống chấp nhận sự việc. Xét cho cùng, con người luôn tìm mọi cách để bảo vệ lợi ích của mình, vì lợi ích chính là cuộc sống, và lợi ích hợp pháp chính là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, nếu việc tạo ra DLXH trở nên dễ dàng hơn với mọi nhóm người thì việc kiểm soát DLXH cần nhiều quyền lực hơn, do đó không phải nhóm nào cũng làm được.

Cuối cùng, có thể thấy xung đột dư luận chính là xung đột lợi ích. Những nhóm ý kiến trái chiều nhau trong DLXH thực chất là biểu hiện của xung đột lợi ích. Khi toàn xã hội đồng tình về một vấn đề thì DLXH thường không có sự xung đột. Nhưng nếu xuất hiện những quan điểm trái chiều, khả năng lớn là do sự xung đột lợi ích giữa các nhóm liên quan. Trong cả bốn câu chuyện trên đều có sự xung đột trong DLXH, và thực tế cũng là sự xung đột giữa lợi ích của các nhóm khác nhau. Nhận thức được vấn đề này sẽ gợi mở ra nhiều vấn đề khác nhau trong nghiên cứu DLXH, đặc biệt trong việc định hướng DLXH dựa vào việc điều chỉnh hài hoà lợi ích giữa các nhóm trong xã hội.

5. Kết luận

Để hài hoà được lợi ích, cần hiểu hơn về lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Không có xã hội nào chỉ có lợi ích cá nhân hay lợi ích cộng đồng. Tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân sẽ dẫn xung đột xã hội liên miên và không thể giải quyết. Còn tuyệt đối hoá lợi ích cộng đồng lại là con đường lý tưởng hoá, thiếu hiện thực và nhiều khi cổ vũ cho sự hình thức, giả dối tập thể. Vậy nên, hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng là con đường để phát triển bền vững. Cơ sở để hài hoà lợi ích chính là hệ thống pháp luật đúng đắn và phù hợp. Đương nhiên đó chỉ là một điều kiện cần, nó còn phải được thực thi nghiêm túc với một bộ máy quản lý hiệu quả. Lợi ích chỉ được hài hoà khi những lợi ích hợp pháp, chính đáng được bảo vệ và những hành vi trục lợi phi pháp được xử lý nghiêm khắc. Bên cạnh những bộ máy quyền lực để đảm bảo sự hài hoà lợi ích giữa các nhóm, các cá thể cũng như cộng đồng thì cũng cần đến DLXH. Dư luận xã hội chính là ý kiến chia sẻ, thảo luận và giám sát của nhiều người đến các vấn đề xã hội nên nó cũng được xem là một công cụ để bảo vệ những lợi ích hợp pháp.

Ngay cả hệ thống luật pháp cũng do con người dựa vào tình trạng hiện thực xã hội mà xây dựng nên. Hiện thực xã hội thay đổi từng giờ, từng ngày nên hệ thống luật pháp, chính sách nhà nước cũng cần thay đổi. Cách thay đổi cần thiết nhất là dựa vào ý kiến của nhiều người. DLXH là một kênh để thể hiện, nắm bắt ý kiến nhiều người một cách nhanh chóng. Tất cả những câu chuyện liên quan mà chúng tôi đã đề cập ở trên đều có thể xem xét và có cách xử lý đúng đắn nều biết tôn trọng, lắng nghe DLXH và phân tích rõ ràng về lợi ích của những bên liên quan. Khi xác định được lợi ích nào là chính đáng và hợp pháp thì phải tìm cách để xử lý thoả đáng, trong trường hợp chính sách chưa có cách thức xử lý thì cần xem xét lại để bổ sung. Đó chính là giá trị tích cực của DLXH. Còn nếu xem DLXH như là kẻ thù, luôn trái chiều và tiêu cực, tìm mọi cách triệt tiêu thì những xung đột sẽ tiếp tục xảy ra và ngày càng gay gắt hơn. Nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, mọi thứ lan truyền nhanh chóng, các mạng lưới xã hội ngày càng dày đặc và không dễ gì kiểm soát được. Vậy nên, thay vì tìm cách hạn chế, kiểm soát và triệt tiêu DLXH thì hãy xem đây như một nguồn lực, một diễn đàn để tham khảo ý kiến của nhiều người. Hãy để DLXH trở thành một công cụ để bảo vệ những lợi ích hợp pháp và chính đáng của con người.

Định hướng DLXH luôn được các nhà quản lý cũng như các bộ máy chính trị quan tâm. Nhưng đây là điều không dễ và càng ngày sẽ càng khó hơn khi mà công nghệ thông tin tiếp tục bùng nổ. Tuy nhiên, nếu các cách can thiệp truyền thống mang tính trực tiếp vào DLXH ngày càng thể hiện nhiều hạn chế, thì cũng có những cách thức định hướng gián tiếp xuất hiện và có những giá trị nhất định đối với việc định hướng DLXH. Hài hoà lợi ích là một phương pháp để định hướng DLXH rất đáng quan tâm. Như đã nói, xung đột DLXH chính là sự thể hiện của xung đột lợi ích, do đó hài hoà lợi ích chính là để định hướng DLXH. Hài hoà lợi ích ở đây là tôn trọng các lợi ích chính đáng, hợp pháp chứ không phải dung hoà, nhân nhượng cho những lợi ích bất hợp pháp. Làm sao để hài hoà lợi ích là vấn đề vô cùng nan giải, nó phải tuỳ thuộc vào sự việc và bối cảnh cụ thể. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ các loại lợi ích như lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng; lợi ích ngắn hạn và lợi ích dài hạn; lợi ích hợp pháp và lợi ích phi pháp. Cần có những chiến lược phát triển, xây dựng hệ thống chính sách sao cho hợp lý để tạo môi trường lành mạnh nhằm đảm bảo sự hài hoà lợi ích giữa nhiều người liên quan. Khi lợi ích các bên liên quan được hài hoà, DLXH sẽ tích cực lên và đóng góp thêm vào quá trình phát triển xã hội./.

Tài liệu tham khảo

Bentham, J. (2009). An Introduction to the Principles of Morals and Legislation (Dover Philosophical Classics). Dover Publications Inc.

Ellis, F. (1993). Peasants Economics: Farm Households and Agrarian Devolopment, 2ndEdition, Cambridge University Press.

Ellis, F. (2000). Rural livelihood and diversity in developing Countries. Oxford Univesity Press.

McElwee, P. (2007). From the Moral Economy to the World Economy: Revisiting Vietnamese Peasants in the Globalizing Era. Journal of Vietnamese Studies, vol.3, No.2, pp 57-107.

Mill, J.S. (1998). Crisp, Roger, biêntập. Utilitarianism. Oxford: Oxford University Press.

Samuel, L.P. (1979). The rational Peasant. The political Economy of rural Society in Vietnam. University of California Press, Ltd. USA.

Neefies, K. (2008). Môitrườngvàsinhkế: cácchiếnlượcpháttriểnbềnvững. NxbChínhtrịQuốcgia, HàNội.

James, C.S. (1976). The Moral Economy of the Peasant: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia. Yale Univ Pr. USA.

Jennifer, S. (2008). Nhànướcbiếnđổivàcácquyluậtthịtrường: biếnđổiruộngđấtvànềnkinhtếthịtrườngduytình ở vùngnúi Ba Vì, Việt Nam. In trong “Thờikỳmởcửa: Nhữngchuyểnđổikinhtế - xãhội ở vùngcaoViệt Nam”. Nxb Khoa họcKỹthuật, HàNội, trang 37-64.

NguyễnĐăngThành. (2010). ĐặcđiểmnguồnnhânlựcdântộcthiểusốViệt Nam: Bằngchứngthuthậptừcuộcđiềutrahộgiađìnhdântộcthiểusốnăm 2009 tại 11 tỉnh. Nxb Lao độngXãhội, HàNội.

NguyễnĐăngThành (chủbiên) và các cộng sự (2010), Mộtsốvấnđềvềpháttriểnnguồnnhânlựcdântộcthiểusốchosựnghiệpđẩymạnhcôngnghiệphoá, hiệnđạihoá ở Việt Nam. (2 tập).NxbChínhtrịQuốcgia, HàNội.

NguyễnĐăngThành (2012), Pháttriểnnguồnnhânlực ở vùngdântộcthiểusốViệt Nam: Đápứngyêucầuđẩymạnhcôngnghiệphoáhiệnđạihoáđấtnước : Sáchchuyênkhảo. NxbChínhtrịQuốcgia, HàNội.


(*)Bài viết là kết quả của Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về DLXH ở vùng dân tc thiểu số nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa, Mã số: CTDT.37.18/16-20.

Read More »

Thứ Ba, 7 tháng 4, 2020

Định kiến, hệ quả và bài học rút ra trong việc tìm hiểu dư luận xã hội ở vùng dân tộc thiểu số


Tạp chí Dân tộc học, số 01(241)2020
Tóm tắt: Hiện nay, vẫn tồn tại định kiến đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số rằng luôn có một dạng thức “bản sắc” có trước, bất biến và không ngừng chi phối những cộng đồng đó. Bài viết này đề cập đến các định kiến về sinh kế truyền thống, về những thực hành tín ngưỡng, về khả năng thích ứng với kinh tế thị trường ở người dân tộc thiểu số như là những ví dụ tiêu biểu và hệ quả của các định kiến ấy. Nó cũng đề cập đến bài học rút ra cho việc tìm hiểu dư luận xã hội ở đối tượng này, đó là không giữ cái nhìn định kiến, người nghiên cứu sẽ không tự tước đi của mình cơ hội để thấu hiểu những hành vi của người dân liên quan đến dư luận xã hội từ sự lý giải của chính chủ thể.
Từ khóa: Định kiến tộc người, dư luận xã hội, dân tộc thiểu số, dân tộc đa số.



Đặt vấn đề
Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng vùng cao Việt Nam không phải là nơi ngoài lề, hẻo lánh và không có ảnh hưởng gì tới các sự kiện chính trị của đất nước, mà ngược lại đóng một vai trò quan trọng đối với toàn quốc gia (Jamieson và cộng sự, 1998). Nhưng trong cái nhìn giản đơn hóa và nhầm lẫn của nhiều người Kinh, vùng cao thường được xem là địa bàn của những con người bị lịch sử bỏ rơi - cư dân sinh sống ở đó có trình độ văn hóa thấp, mê tín dị đoan, có nền kinh tế nặng về tự cung tự cấp và là tác nhân chính gây ra suy thoái môi trường (Jamieson và cộng sự, 1998, tr. 19-22). Cái nhìn mang tính định kiến như vậy tồn tại từ quá khứ và biểu hiện dai dẳng ở hiện tại trong truyền thông, cả trong các công trình khoa học, chính sách... và không ngừng chi phối mối quan hệ giữa người Kinh với người dân tộc thiểu số (DTTS). Như một học giả nhận định, quá trình hình thành định kiến bao gồm việc dán nhãn, mặc định nhóm bị định kiến với một hệ giá trị gán cho, thiết lập ranh giới giữa “ta” và “họ”, phân biệt đối xử và tạo cán cân quyền lực không công bằng (Link và Phelan, 2001). Quá trình đó đã gây ra nhiều hệ quả tiêu cực đối với người DTTS nước ta. Tuy nhiên, định kiến là cái mang tính xã hội và có thể thay đổi (Phạm Quỳnh Phương và cộng sự, 2016).
Trên cơ sở tổng quan tài liệu, bài viết này đề cập tới những định kiến chủ yếu đối với người DTTS ở Việt Nam. Đồng thời, qua nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dư luận xã hội ở vùng dân tộc thiểu số nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa”[1], một số kết quả khảo sát bước đầu được đưa vào mô tả nhằm giải định kiến và nhấn mạnh rằng bài học kinh nghiệm cần thiết được rút ra cho việc tìm hiểu về dư luận xã hội ở nhóm DTTS trong bối cảnh hiện nay là điều đáng bàn luận.
          1. Định kiến đối với người dân tộc thiểu số và hệ quả
          Một số dạng định kiến nổi bật về người DTTS có thể kể đến là định kiến về hoạt động sinh kế, định kiến về đời sống tâm linh và định kiến về khả năng thích ứng với kinh tế thị trường.
1.1. Định kiến về hoạt động sinh kế
Dạng thức định kiến đầu tiên có thể nói đến về người DTTS ở nước ta là về hoạt động sinh kế, cụ thể là về việc đốt rừng làm nương. Theo tiến hóa luận đơn tuyến của Morgan (1818 - 1881), cách canh tác vừa nêu được xem là ở bậc thang thấp nhất, “nguyên thủy” nhất. Dưới ảnh hưởng lâu dài của Morgan, nhiều người đã phê phán rằng nó chỉ đưa đến năng suất rất hạn chế, từ đó dẫn tới một đời sống phiêu dạt đầy bấp bênh cho người dân, trong khi lại tàn phá môi trường. Một số người còn cho rằng, việc loại bỏ nó sẽ mang lại bước tiến có tính cách mạng cho người DTTS, vì nó là sản phẩm của tình trạng thiếu hiểu biết và kìm hãm sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đối tượng đang đề cập (Đặng Nghiêm Vạn, 1975; Trần Mạnh Cát, 1975; Trần Nam và Trần Hữu Sơn, 1989; Nguyễn Anh Ngọc, 1989). Tuy nhiên, thực tế cho thấy hình thức canh tác trên là kết quả của việc vận dụng tri thức địa phương vốn được tích lũy qua nhiều thế hệ và phù hợp với địa hình và thổ nhưỡng vùng cao. Guilleminet là công sứ tỉnh Kon Tum thời Pháp thuộc và là một nhà dân tộc học, từng khẳng định trong một công trình nghiên cứu của mình về người Ba-na (1952) rằng, chắc chắn các thành viên của tộc người này có cuộc sống no đủ hơn nông dân ở đồng bằng Trung Bộ. Hình thức canh tác nương rẫy cũng không khiến người dân phải du cư. Với việc luân khoảnh khép kín, người ta canh tác một mảnh rẫy trong vài năm rồi bỏ hóa, lần lượt chuyển sang các mảnh kế cận và quay trở lại mảnh rẫy cũ khi trạng thái ban đầu của nó đã được phục hồi. Những mảnh rẫy này không quá xa nơi ở nên không phải là lý do để người nông dân phải rời bỏ buôn làng của mình.
Trong điều kiện đất đai và dân số trước đây, hoạt động canh tác nương rẫy cũng không hủy hoại môi trường. Dournes - một nhà truyền giáo sống ở Tây Nguyên nhiều năm sau Đại chiến thế giới II, cũng là nhà dân tộc học - đã nhận xét rằng, hình thức canh tác này không hề lãng phí hay gây tàn phá mà đảm bảo để con người sinh tồn hài hòa bên cạnh các giống loài khác, và ông còn nhấn mạnh rằng các lỗ hổng của rừng sẽ được lấp lại “nhanh chóng và mạnh mẽ đến kì lạ” sau khi những lớp cây cối bị chiếc rìu của người nông dân đốn đi (2003, tr. 75). Với việc luân khoảnh khép kín như trên đã nói, rừng vẫn hoàn toàn được bảo tồn. Bằng chứng là tỷ lệ che phủ của rừng ở vùng cao nước ta luôn là rất lớn suốt nhiều thế k qua cho đến ít nhất là trước Cách mạng (1945) - thời điểm rừng còn chiếm tới 90% (Vũ Đình Lợi và cộng sự, 2000), dù dân cư bao thế hệ đã không ngừng thực hiện những hoạt động sản xuất nông nghiệp quen thuộc của mình. Nói cách khác, canh tác nương rẫy không những không phải là một dạng canh tác làm tổn hại tự nhiên, mà ngược lại còn là một hình thức khai thác bền vững với môi trường (Forsyth, 1999). Đó là chưa kể, các công cụ lao động của nền nông nghiệp nương rẫy cũng là những công cụ phù hợp với việc trồng trọt trên đất dốc, giúp hạn chế sự xói mòn của đất đến mức tối đa. Không phải ngẫu nhiên mà chính sách của Nhà nước liên quan đến việc “định canh định cư” các cộng đồng DTTS trong những thập niên qua đã phải đối mặt với không ít vấn đề và kết quả chưa đạt như mong muốn - trong đó việc áp dụng mô hình nông nghiệp chưa phù hợp, chưa kế thừa tri thức của người dân tại chỗ là một lý do cơ bản.
Những chủ nhân lâu đời của núi rừng là những con người đã tích lũy được một lượng đáng kể tri thức liên quan đến việc sử dụng tài nguyên một cách bền vững, nhưng thật không công bằng khi điều đó thường bị phủ nhận, đúng như đánh giá của Briggs và Sharp (2004) rằng cho đến nay vẫn tồn tại một quan điểm thống trị là khoa học phương Tây chắc chắn tiến bộ hơn hẳn những phương thức khác. Rõ ràng, người dân không thực sự có lỗi trong việc mất rừng nhưng cuối cùng họ lại phải gánh trách nhiệm bởi các diễn ngôn liên quan, mà cụ thể là diễn ngôn về sự “lạc hậu” của hình thức canh tác đốt nương làm rẫy (McElwee, 2004). Vì mục đích của các chương trình phát triển là thay đổi tư duy của người dân, họ hay bị xem là những người không có đủ nhận thức (Jorgensen, 2006).
1.2. Định kiến về đời sống tâm linh
Dạng thức định kiến thứ hai đối với người DTTS nước ta là quan điểm cho rằng họ là những người đắm chìm trong các thực hành văn hóa - xã hội mang tính mê tín dị đoan (Cửu Long Giang và Toan Ánh, 1974; Đặng Nghiêm Vạn, 1986; Trương Minh Dục, 2005). Song, thành viên của các tộc người này chỉ đơn giản là có nhu cầu về một đời sống tâm linh như mọi tộc người trên thế giới, trong đó bao gồm người Kinh. Diễn đạt cách khác, tương tự rất nhiều người, họ có những niềm tin và tập tục không dựa trên cơ sở khoa học (Jamieson và cộng sự, 1998). Ngoài ra, theo Phạm Quỳnh Phương và cộng sự, có những niềm tin và tập tục đã trở thành dĩ vãng mà đến nay vẫn được gắn vào người DTTS đương đại như thể chúng đang diễn ra và có thể “quan sát” được (2016, tr. 39), tức như thể bản sắc là cái không bao giờ thay đổi. Bên cạnh đó, không ít thực hành mà chúng ta cho là kì bí/cuồng tín chỉ tồn tại trong những lời kể chứ chưa có ai được chứng kiến (Phạm Quỳnh Phương và cộng sự, 2016, tr. 73). Mặt khác, một số luật tục liên quan đến đời sống tâm linh của họ thoạt nghe có vẻ phản nhân văn thực ra lại chỉ mang ý nghĩa răn đe hơn là mang tính ứng dụng (Phan Đăng Nhật, 2002, tr. 193-194).
Mặc dù vậy, dưới con mắt của người Kinh, mê tín dị đoan vẫn được xem là bản chất “hàng đầu” của các DTTS. Quan trọng hơn, nó còn được xem là nguyên nhân khiến các dân tộc này không “tiến bộ” được do lãng phí tài sản, thời gian vào việc cúng bái và tin vào các thế lực siêu nhiên hơn là bản thân. Nhận thức ấy đã góp phần dẫn đến những chính sách bất cập về tín ngưỡng nói riêng và văn hóa nói chung đối với đồng bào. Với chủ trương xóa bỏ “hủ tục” - được xem là những tàn dư của xã hội cũ - trong cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa do chính quyền thực hiện, nhiều thực hành tín ngưỡng của người DTTS liên quan tới vòng đời người, tới sinh hoạt cộng đồng và tới việc sản xuất đã dần bị loại trừ. Theo tổng kết của Bế Viết Đẳng từ nhiều thập niên trước: “Trong công tác văn hóa, (...) bài trừ mê tín dị đoan, giải phóng các dân tộc thoát khỏi những lề thói lạc hậu đã được đặt ra bằng nhiều hình thức cụ thể, tích cực từ những năm 1961 - 1962 đến nay. Tại nhiều nơi một số hủ tục như: ở rể, thách cưới to, làm ma kéo dài, kiêng k nhiều ngày không đi sản xuất... đã bị bỏ hẳn. Ở nhiều vùng, những người lớn tuổi không còn ai học làm nghề cúng bái” (1975, tr. 10).
Việc bài trừ tập quán tín ngưỡng như trên đã dẫn đến mất mát một phần đáng kể di sản văn hóa của đồng bào DTTS thông qua sự phai nhạt của một loạt các phong tục, tập quán liên quan khác. Dù Nhà nước có chủ trương bảo tồn nhưng các phong tục ấy đã mất đi môi trường mang tính chỉnh thể để tồn tại hoặc nếu có xuất hiện thì cũng chỉ là dưới dạng sân khấu hóa mà thôi. Đồng thời, sự bài trừ các thực hành tín ngưỡng như vậy đã để lại khoảng trống vô cùng to lớn về mặt tâm linh trong đời sống của đồng bào. Đây chính là một trong những tiền đề cho sự bùng nổ của niềm tin mới là đạo Tin Lành trong cộng đồng các DTTS những thập niên gần đây. Về vấn đề này, ta cũng cần lưu ý đến nhận định của Salemink (2009) rằng, việc chủ động tham gia vào một tôn giáo có tính quốc tế và hiện đại còn là cách thức để những người DTTS thể hiện mình như là những người “văn minh” hơn cả người Kinh. Điều này cho thấy phần nào tâm lý của họ trước việc lâu nay vẫn bị một số người dán nhãn là “mê tín dị đoan”.
1.3. Định kiến về khả năng thích ứng với kinh tế thị trường
Một dạng thức định kiến khác về người DTTS ở nước ta là họ vẫn chỉ sống trong hệ thống kinh tế tự cung tự cấp và không hưởng ứng việc thị trường hóa. Ví dụ, có thể thấy điều đó trong nghiên cứu của Đặng Nghiêm Vạn (1986). Thực ra, người DTTS trước đây cũng như hiện nay đều có ý thức về việc sản xuất hàng hóa. Chẳng hạn, Dournes từng mô tả cụ thể sự trao đổi sản phẩm dệt của người Mạ với bên ngoài như sau: “Công việc trao đổi được tiến hành hoặc với người Việt ở chợ Di Linh, Blao hay Đà Lạt, hoặc với người Tây Nguyên ở các tộc người khác, đặc biệt với những người sản xuất lúa gạo. Khi những người đàn bà đã hoàn tất công việc vất vả của mình, đàn ông mang vải trong những chiếc gùi, thường giấu những tấm đẹp nhất xuống dưới, để chỉ giới thiệu trước những thứ hàng kém phẩm chất hơn. Đôi khi một vài người đàn bà đi theo những cuộc buôn bán đó. Nếu một người Mạ cần muối và cá, họ sẽ đi bán chăn của mình cho người Việt, những người Việt này lại đem bán lại cho những người Tây Nguyên khác đến mua ở các cửa hàng của họ. Chợ Blao tập hợp sản phẩm của các làng ở cạnh con đường lớn; chợ Di Linh thì ăn hàng của các làng ở Daa Dông; chợ Đà Lạt thu hút người Mạ-Ja ở chân núi Liang Biang” (Dournes, 2003, tr. 102).
Bên cạnh đó, không ít nghiên cứu chỉ ra rằng, với những sản phẩm đặc trưng của vùng cao, người DTTS thậm chí đã tham gia một cách tích cực vào nền kinh tế thị trường nhiều thế kỷ qua. Chẳng hạn, dân cư Tây Nguyên có những quan hệ thương mại rất mạnh mẽ với vương triều Champa và sau này là vương triều Đàng Trong (Tana, 1999; Salemink, 2008; Hardy, 2008). Trong bối cảnh đương đại, người DTTS lại càng không thờ ơ với kinh tế thị trường. Có điều, do sự chi phối của yếu tố văn hóa trong mỗi vùng địa lý, ở một số trường hợp họ sẽ tham gia vào nền kinh tế này theo cách của họ (Escobar, 2001). Ví dụ như người nông dân Hmông trong nghiên cứu của Tunner, Bonnie và Michaud (2015) vừa có những tính toán duy lý lại vừa có những cân nhắc duy tình trong các quyết định liên quan đến sinh kế của mình - họ đón nhận các cơ hội, nhưng không để bị phụ thuộc quá nhiều vào thị trường. Như vậy, họ không có tư tưởng tuyệt đối chống lại cái hiện đại mà chỉ chống lại những gì không phù hợp với họ (Jamieson và cộng sự, 1998). Tuy nhiên, việc họ bị dán nhãn như là những người từ chối nền kinh tế thị trường đã gián tiếp ảnh hưởng đến quyền được thông báo, tham vấn và quyết định của họ trong những vấn đề liên quan.
2. Giải định kiến - gợi ý nắm bắt dư luận xã hội ở người dân tộc thiểu số qua vài dữ liệu từ thực tiễn
Mặc dù Hiến pháp Việt Nam thừa nhận vị thế bình đẳng giữa các dân tộc, nhưng cái nhìn mang tính định kiến của người Kinh về người DTTS và của một bộ phận người DTTS với bộ phận còn lại vẫn tồn tại và gây ra không ít hệ quả. Điều đó dễ hiểu, bởi học thuyết vị tộc người (ethnocentrism) vẫn đang tồn tại ở các cộng đồng và cá nhân thường có vai trò chủ đạo trong việc ra chính sách và thực thi chính sách. Định kiến của họ đối với các DTTS chính là một trong những thách thức đáng kể cho việc gắn kết các DTTS vào quá trình phát triển chung của đất nước ta, vì người DTTS sẽ luôn bị đánh giá bởi những gì họ thiếu hụt theo quan điểm của người bên ngoài và bởi những khác biệt của họ trong sự so sánh với văn hóa của nhóm đa số (Rambo và Jamieson, 2003). Sự định kiến ấy còn có thể gây ra tâm lý tự ti khi các diễn ngôn được người DTTS nhập tâm ở một mức độ nhất định và từ đó ít nhiều mất đi niềm tin vào nội lực của tộc người. Từ việc xem lại hệ quả của cái nhìn định kiến đối với các DTTS, chúng ta cần rút ra bài học cho việc tìm hiểu dư luận xã hội ở đối tượng đang đề cập.
Xung quanh những hành vi tập thể của người DTTS, bao gồm trong đó cả việc tạo dựng và lan truyền dư luận, đã từng có không ít ý kiến cho rằng họ là những người hạn chế về nhận thức nên dễ trở thành đối tượng để các thế lực xấu kích động, lợi dụng và từ đó có những hành động tiêu cực. Một sự tiếp cận hàm chứa quan điểm tiến hóa (evolutionism) như vậy sẽ loại trừ hết các khả năng vốn rất đa dạng của thực tế. Kết quả khảo sát về dư luận xã hội vùng DTTS ở các tỉnh phía Bắc trong khuôn khổ đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dư luận xã hội ở vùng dân tộc thiểu số nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa” (một đề tài nghiên cứu cơ bản về dư luận xã hội nói chung) đã cho thấy những điều ngược lại.
Trước hết, những người dân mà chúng tôi phỏng vấn rất quan tâm đến việc tiếp cận thông tin. Các kênh thông tin chủ yếu của họ là: các cuộc họp thôn bản (75,5%); truyền hình (60,1%); cán bộ chính quyền, đoàn thể (58,9%); bạn bè, người thân (46,6%); già làng, trưởng bản, người có uy tín (44,5%); internet (33,9%); truyền thanh (30,6%);... Như vậy, những kênh thông tin mà họ hướng đến rất đa dạng, bao gồm cả hiện đại lẫn truyền thng. Điều này khiến cho không ai bất đắc dĩ trở thành người mù thông tin, ngay cả khi họ chưa tận dụng được ưu thế của việc sử dụng công nghệ. Được tiếp cận thông tin là nhu cầu thực tế của người dân và họ rất không bằng lòng mỗi khi một trong những nguồn thông tin quen thuộc của mình vì một lý do nào đó bị đình trệ.
Tuy nhiên, đa dạng hóa việc tìm kiếm nguồn thông tin không có nghĩa là người dân mặc nhiên tin hoàn toàn vào tất cả. Việc tiếp cận thông tin từ internet - nguồn thông tin rất quan trọng của thời đại toàn cầu hóa - là một ví dụ. Khoảng một nửa số người dân được chúng tôi phỏng vấn có sử dụng điện thoại thông minh (smartphone) mà hầu hết trong đó (95,4%) có dùng internet. Tuy vậy, khi được hỏi có tin vào các thông tin được truyền tải trên internet hay không, có tới 85,5% cho biết chỉ “tin một phần”. Như vậy, có thể thấy rằng những người dân ở địa bàn mà chúng tôi nghiên cứu không hề dễ dãi trong việc tiếp nhận thông tin.
Khi nhận được một thông tin liên quan đến trách nhiệm và quyền lợi của cá nhân và cộng đồng, người ta thường trao đổi với ai? Kết quả mà chúng tôi thu được là: 90,3% thông tín viên trao đổi với người thân trong gia đình, 80,2% với hàng xóm, 63,5% với bạn bè và đồng nghiệp, 61,9% với trưởng thôn/bản/buôn/ấp, 39,4% với cán bộ chính quyền và người có trách nhiệm, 33,2% với người có uy tín. Có thể khẳng định, các quan hệ phi quan phương chính là những quan hệ mà người ta dành nhiều sự chia sẻ nhất về phương diện này. Theo các thông tín viên, việc trao đổi với người thân vừa là nhu cầu vừa là trách nhiệm (người đi họp chia sẻ thông tin với những người còn lại trong nhà), còn việc trao đổi với hàng xóm hay bạn bè, đồng nghiệp thì vừa là nhu cầu vừa là thói quen. Điều đó cho thấy người ta thường thảo luận về những vấn đề của mình trong “thế giới” của mình trước. Nói cách khác, người ta sẽ không làm cho thông tin trở thành cơ sở của dư luận xã hội trước khi bàn bạc k về nó.
Với việc cân nhắc về các thông tin trước khi trao đổi, chỉ 24,1% số người được hỏi cho biết sẽ trao đổi ngay sau khi nhận được thông tin, còn 47,3% suy nghĩ k rồi mới trao đổi và 27,8% tùy theo vấn đề mà quyết định. Như vậy, có gần hai phần ba bộc lộ sự thận trọng trong việc này. Giải thích cho điều đó, họ nói rằng nếu không có gì gấp gáp thì “suy nghĩ k vẫn tốt hơn”. Ngoài ra, những người chọn giải pháp trao đổi ngay sau khi nhận thông tin cũng không phải không tiếp tục suy nghĩ về thông tin ấy. Một số cho biết họ quyết định trao đổi ngay chỉ đơn giản là vì chuyện này sẽ không ảnh hưởng gì đến việc họ còn trao đổi nữa nếu cần.
Người dân thường tự tìm gặp người để trao đổi thông tin hay khi có người hỏi hoặc tiện có việc khác thì mới trao đổi? Có tới 63,9% cho biết họ chọn phương án thứ nhất. Con số đó cho thấy tính chủ động của họ.
Sự thận trọng của họ còn được chứng minh qua việc trả lời câu hỏi về cách nêu ý kiến của mình khi tham gia các cuộc họp thôn/bản trong các cuộc họp như thế nào: có tới 58,0% chọn phương án lắng nghe ý kiến của mọi người rồi mới phát biểu, 18,8% chọn phương án cùng mọi người góp ý cho người có uy tín phát biểu thay, và rất ít người nghĩ đến chuyện bỏ ra về khi không đồng ý (1,0%). Đáng chú ý là chỉ khoảng một nửa (56,1%) giới hạn sự phát biểu những chủ đề mình quan tâm. Diễn đạt cách khác, họ cũng phát biểu về những gì mà mọi người quan tâm. Thực tế, nhiều thông tín viên thậm chí khá nhiệt tình lên tiếng trong những vấn đề không trực tiếp liên quan đến họ. Một số phụ nữ ở bản Nà Hừ I, xã Bum Nưa, huyện Mường Tè, Lai Châu đã khẳng định: “Chúng tôi nói là vì nhiều người khác! Có cái không ảnh hưởng đến chúng tôi nhưng chúng tôi vẫn ý kiến!”. Còn một thông tín viên ở bản Vàng Bó, thị trấn Phong Thổ, huyện Phong Thổ nhấn mạnh: Tôi phản ánh là vì sự công bằng chứ không phải vì quyền lợi của tôi!”. Trên bình diện nhất định, điều này đồng nghĩa với việc người ta có trách nhiệm với cộng đồng. Như vậy, phần nào trái với nhận định chung của các lý thuyết hiện đại về số phận của thiết chế làng xã, tinh thần cộng cảm ở thôn bản vùng DTTS phía Bắc nước ta vẫn rất đáng kể trong thời hiện đại này. Nó cũng nói lên rằng, trái với quan điểm của kinh tế quyết định luận, dư luận không phải sẽ không xuất hiện nếu nó không gắn với tính tư lợi của con người.
Kết quả của những cuộc thảo luận trong cộng đồng còn cho thấy, khi các ý kiến cơ bản thống nhất, hành động của những người được phỏng vấn thường là ủng hộ bằng việc làm cụ thể (74,5%), thông báo lại cho người khác cùng biết (71,6%), vận động người khác cùng làm (59,3%), theo dõi diễn biến sự việc (36,2%) và tiếp tục nêu vấn đề ra cuộc họp thôn/bản/buôn/ấp (18,3%). Còn khi các ý kiến không đi đến thống nhất, họ sẽ đưa sự việc ra các cuộc họp thôn/bản/buôn/ấp (66,9%), phản ánh sự việc lên chính quyền các cấp (33,1%) hoặc không làm gì (17,2%). Có thể nói, dù thống nhất hay không thống nhất với nhau, họ thường chọn cách giải quyết hợp pháp chứ không manh động. Số người chọn phương án “Khác” là rất ít (2,0%).
Liên quan đến vấn đề này, đáng chú ý là ở một số trường hợp, những người ít học hoặc hoàn toàn mù chữ mà ta quen nghĩ là “yếu thế” cũng rất quyết đoán. Những người phụ nữ ở bản Nà Hừ I, xã Bum Nưa, huyện Mường Tè, Lai Châu là một ví dụ: Nếu các ý kiến sau khi trao đổi không thống nhất, họ không ngần ngại chọn giải pháp đưa sự việc ra các cuộc họp thôn/bản hoặc phản ánh sự việc lên chính quyền các cấp. “Không phải ít học thì không biết gì! Vẫn biết, không biết nhiều thì biết ít!”, họ giải thích lý do cho quyết định của mình như vậy. Có thể nói, không phải mặc dù mà bởi vì không biết chữ, họ đã chủ động và tích cực tham gia vào đời sống dư luận, qua đó bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân và gia đình.
Về sự hiện diện tại các cuộc họp thôn/bản của gia đình trong vòng hai năm gần nhất, có tới 95,2% chọn câu trả lời là có. Con số đó cho thấy ý thức công dân rất cao của đồng bào. Khoảng gần 70% số người được hỏi cho biết đại diện gia đình họ có phát biểu khi họp hành. Đây cũng là con số nói lên tinh thần chủ động, tích cực của người dân. “Mình phát biểu một lần chưa được thì phát biểu nhiều lần, lần này người ta chưa chú ý thì lần khác người ta sẽ chú ý, còn hơn là không nói gì!”, một số người nhấn mạnh.
Khi đại diện gia đình đi họp về, hầu hết (95,2%) có thông báo cho các thành viên trong gia đình, trong đó 73,2% thông báo đầy đủ và 20% thông báo một phần. Các thông tín viên giải thích về việc “thông báo một phần” rằng họ tập trung vào những gì là quan trọng. Nam thường đi họp nhiều hơn nữ, nhưng ngay cả tại những nơi mà nữ rất ít đi họp thì chị em cũng không phải là xa lạ với đời sống dư luận - người chồng khi về nhà sẽ trao đổi với vợ và cùng đưa ra những quyết định chung có liên quan.
Người dân có thái độ như thế nào khi không đồng ý với sự giải quyết của cán bộ xã về một vấn đề cụ thể? Được phép có nhiều sự lựa chọn từ đáp án, 61,5% chọn giải pháp thảo luận tranh luận để tìm ra cái đúng, 53,8% chọn giải pháp đưa vấn đề ra xin ý kiến ở cuộc họp thôn/bản/buôn/ấp, 24,9% chọn giải pháp tập hợp mọi người xung quanh để cùng giải quyết, 12,3% chọn giải pháp phản đối gay gắt bằng lời nói, 12,1% chọn giải pháp viết đơn tố cáo. Rất hiếm người (1,3%) chọn giải pháp vũ lực. Khi không đồng ý với sự giải quyết của cán bộ ở thôn/bản/buôn/ấp, sự lựa chọn của người dân cũng gần tương tự. Có thể thấy, càng tiến đến những giải pháp có tính căng thẳng thì mức độ lựa chọn của người dân càng giảm. Nhưng trong khi coi trọng sự ôn hòa, những giải pháp được ưu tiên của họ vẫn là tranh luận/thảo luận trực tiếp hoặc đưa vấn đề ra xin ý kiến ở cuộc họp chứ không phải là nhượng bộ vô điều kiện.
Ngoài các cuộc họp cộng đồng, người dân sử dụng những cách thức nào để các cấp chính quyền biết đến ý kiến của mình? Những câu trả lời của họ lần lượt là: đề xuất ý kiến thông qua cán bộ thôn/bản/buôn/ấp trên địa bàn (84,5%), đề xuất ý kiến thông qua người có uy tín trong cộng đồng sinh sống (45,5%), đề xuất ý kiến thông qua các tổ chức chính trị - xã hội như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh... (42,3%), đề đạt trực tiếp tại các cơ quan công quyền (18,4%), đề đạt bằng văn bản (đơn, thư) lên các cấp chính quyền theo trình tự (17,8%), đề xuất ý kiến thông qua các phương tiện công nghệ thông tin (5,2%), đề đạt bằng văn bản (đơn, thư) vượt cấp (2,3%), cuối cùng là đề xuất ý kiến thông qua báo chí, đài truyền hình, truyền thanh địa phương (1,6%). Có thể thấy, họ rất thận trọng trong việc kiện tụng, nhất là kiện tụng vượt cấp. Đặc biệt, họ ý thức rằng nếu muốn tố cáo tiêu cực thì người tố cáo phải có “những bằng chứng thật cụ thể”. Tóm lại, họ cân nhắc một cách kỹ lưỡng trong mỗi hành động của mình trước những sự kiện/vấn đề mang tính đúng - sai.
Những vấn đề người dân quan tâm cũng là điều đáng được phân tích. Khi được hỏi về những hiện tượng xã hội khiến bản thân bức xúc hiện nay, các thông tín viên của chúng tôi lần lượt chọn các đáp án là: ô nhiễm môi trường (45,2%), thiếu đất sản xuất (45%), thiếu công ăn việc làm (40,9%), tệ nạn xã hội và tội phạm (27,9%), tiêu cực trong giáo dục (15,9%), bạo lực gia đình (15,8%), tham ô và tham nhũng (15,7%), tiêu cực trong y tế (14%),... Đáng chú ý, nhiều người nhấn mạnh rằng không phải tất cả những vấn đề trên đều xảy ra tại địa bàn cư trú của họ. Một số là “những vấn đề của toàn xã hội” và theo họ “chúng ta là công dân thì cần quan tâm”. Cụ thể, đó là tình trạng ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, tham nhũng, những tiêu cực trong giáo dục và y tế. Việc mở rộng mối quan tâm tới những vấn đề của toàn xã hội như vậy một lần nữa nói lên ý thức công dân ở họ.
Rõ ràng, thực tế trên cho thấy rằng, người nghiên cứu không thể giữ một cái nhìn tiên nghiệm là đồng bào DTTS không có đủ năng lực chủ thể để trả lời về việc vì sao họ làm cái điều họ đã làm liên quan đến dư luận xã hội.
Kết luận
Như đã nói, định kiến với người DTTS đang tồn tại và có sự chi phối đáng kể đến sự nhìn nhận của người dân tộc đa số về đối tượng này. Điều đó cũng diễn ra cả với dư luận xã hội của họ: người DTTS thường bị xem là những người hạn chế về nhận thức và dễ trở thành đối tượng để các thế lực xấu kích động, lợi dụng. Một cái nhìn như vậy - đánh giá họ như những người “không hiểu gì về mình khi nói về mình” hay không đủ năng lực để giải thích về lý do làm cái việc mà họ đã làm là không đúng đắn. Điều đó cần được thay đổi. Để nhận thức hành vi, hành động của họ, cần nhận thức được mạng lưới ý nghĩa mà họ đang đặt mình trong đó. Tôn trọng sự diễn giải của người trong cuộc sẽ giúp chúng ta làm được việc này. Có như vậy, chúng ta mới không tự tước đi của mình cơ hội để thấu hiểu về những gì đang xảy ra liên quan đến bức tranh về dư luận xã hội ở vùng DTTS - nơi đang chiếm một phần đáng kể diện tích và dân số của cả nước. Và từ đó, những kết quả nghiên cứu của chúng ta mới có thể là tài liệu tham khảo hữu ích thực sự cho người làm chính sách.

Tài liệu tham khảo
1.    Briggs, J., Sharp, J. (2004), “Indigenous Knowledges and Development: A Postcolonial Caution”, Third World Quarterly, 25 (4): 661-676.
2.    Trần Mạnh Cát (1975), “Dân tộc Pà Thẻn sau định canh định cư”, Tạp chí Dân tộc học,     Số 2, tr. 68-75.
3.    Dournes, J. (Dam Bo) (2003), Miền đất huyền ảo (các dân tộc miền núi Nam Đông Dương), Nguyên Ngọc dịch, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
4.    Trương Minh Dục (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5.    Bế Viết Đẳng (1975), “Các dân tộc thiểu số nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 45 năm qua”, Tạp chí Dân tộc học, Số 4, tr. 1-12.
6.    Escobar, A. (2001), “Culture Sits in Places: Reflections on Globalism and Subaltern Strategies”, Political Geography, 20 (2): 139-174.
7.    Forsyth, T. (1999), “Questioning the Impacts of Shifting Cultivation”, Watershed: People’s Forum on Ecology, 5 (1): 23-29.
8.    Cửu Long Giang, Toan Ánh (1974), Cao nguyên miền Thượng, 2 quyển, Sài Gòn.
9.    Hardy, A. (2008), “Eaglewood and the Economic History of Champa and Central Vietnam”, in: Andrew Hardy, Mauro Cucarzi and Patrizia Zolese (eds.), Champa and the Archaeology of Mỹ Sơn (Vietnam), Singapore: NUS Press.
10. Jamieson, N.L., Le, T.C., Rambo, T.A. (1998), “The Development Crisis in Vietnam’s Mountains”, East-West Centre Special Report, Number 6, Hawaii.
11. Jorgensen, B.D. (2006), Development and “The Other Within”: The Culturalisation of the Political Economy of Poverty in the Northern Uplands of Vietnam, Dissertation, Goteborg University.
12. Guilleminet, P. (1952), Bộ lạc Bahnar ở Kon Tum, tài liệu đánh máy, Thư viện Viện Dân tộc học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).
13. McElwee, P.D. (2004), “Becoming Socialist or Becoming Kinh? Government Policies for Ethnic Minorities in the Socialist Republic of Vietnam”, in: Christopher R. Duncan (ed.), Civilizing the Margins: Southeast Asian Government Policies for the Development of Minorities, Ithaca and London: Cornell University Press.
14. Trần Nam, Trần Hữu Sơn (1989),“Vấn đề phát triển văn hóa và việc thực hiện định canh, định cư ở vùng người H’mông tỉnh Hoàng Liên Sơn”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2+3, tr. 80-91.
15. Nguyễn Anh Ngọc (1989), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác định canh định cư ở vùng người H’mông ở Hoàng Liên Sơn”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2+3, tr. 20-36.
16. Phan Đăng Nhật (2002), “Vai trò của buôn - Plei trong việc phát triển Tây Nguyên với quyền quản lý tài nguyên và việc điều hành bằng luật tục”, trong: Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Link, B.G., Phelan, J.C. (2001), “Conceptualizing Stigma”, Annual Review of Sociology, 27: 365-385.
18. Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng (2000), Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Phạm Quỳnh Phương, Hoàng Cầm, Lê Quang Bình, Nguyễn Công Thảo, Mai Thanh Sơn (2016), Thiếu số cần tiến kịp đa số - Định kiến trong quan hệ tộc người ở Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
20. Rambo, T., Jamieson, N.L. (2003), “Upland Areas, Ethnic Minorities and Development”, in: Luong Van Hy (ed.), Post War Vietnam Dynamic of a Transforming Society, Lanham: Rowman and Littlefield.
 21. Salemink, O. (2001), “Who Decides Who Preserves What? Cultural Preservation and Cultural Representation”, in: Oscar Salemink (ed.), Viet Nam’s Cultural Diversity: Approaches to Preservation, Paris: UNESCO Publishing.
 22. Salemink, O. (2008), “Trading Goods, Prestige and Power, a Revisionist History of Lowlander - Highlander Relations in Vietnam”, in: Peter Boomgaard, Dick Kooiman and Henk S. Nordholt (eds.), Linking Destinies: Trade Towns and Kin in Asian History, Leiden: KITLV Press.
23. Salemink, O. (2009), “Is Protestant Conversion a Form of Protest? Urban and Upland Protestant in Southeast Asea”, in: Julius Bautista and Francis K.G. Lim (eds.), Christianity and the State in Asia: Complicity and Conflict, Routledge: London - New York.
24. Tana, L. (1999), Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18, Nguyễn Nghị dịch, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
25. Turner, S., Bonnie, C., Michaud, J. (2015), Frontier Livelihoods: Hmong in the Sino-Vietnamese Borderlands, Seattle: University of Washington Press.
26. Đặng Nghiêm Vạn (1975), “Vài ý kiến về vấn đề nương rẫy trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Dân tộc học, Số 1, tr. 7-21.
27. Đặng Nghiêm Vạn (1986), “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về kinh tế - xã hội Tây Nguyên trên chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội”, trong: Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.


* Bài viết là kết quả của Đề tài khoa học cấp Nhà nước:Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dư luận xã hội ở vùng dân tc thiểu số nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa, Mã số: CTDT.37.18/16-20

[1] Đây là đề tài nghiên cứu cơ bản về dư luận xã hội nói chung thay vì dư luận xã hội đối với một vấn đề cụ thể. Khảo sát của chúng tôi ở phía Bắc được tiến hành trên địa bàn 04 tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống là Lạng Sơn, Hà Giang, Lai Châu và Sơn La: mỗi tỉnh chọn 02 huyện trên cơ sở có khoảng cách xa nhất (nằm ở hai cực), mỗi huyện chọn một và một thị trấn trên nguyên tắc trung tâm và ngoại vi. Từ các xã/phường/thị trấn đó, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 75 mẫu để triển khai phỏng vấn bảng hỏi. Số mẫu này phân bố đều trên các thôn/bản. Điều tra viên sẽ chọn người trưởng thành được gặp đầu tiên khi tiếp cận hộ gia đình để phỏng vấn. Tổng cộng có 300 mẫu cho mỗi tỉnh, 1.200 mẫu cho 4 tỉnh. Sau quá trình làm sạch, số bảng hỏi còn lại được xử lý là 1.193 mẫu. Bên cạnh đó, chúng tôi đã tiến hành 200 cuộc phỏng vấn sâu (50 cuộc/tỉnh).


Phan Tân
Lê Thị Thùy Ly, Viện Nghiên cứu Văn hóa
Read More »