Bài đăng nổi bật

Việt Nam nhìn từ Chủ thuyết phát triển

Thứ Hai, 25 tháng 9, 2017

Tham luận 6: Nhường nhịn và thiếu nhường nhịn: nhìn từ truyền thống và văn hoá

Ba tầng văn hoá: Văn hoá vật chất, Văn hoá hành vi và Văn hoá quan niệm với quan hệ đồng thuận/xung đột giữa chúng có quyết định lớn đến sự phát triển bền vững. Đây là gợi mở có lý, hy vọng sẽ có những nghiên cứu sâu, nhưng sẽ là những nghiên cứu khó!


NHƯỜNG NHỊN VÀ THIẾU NHƯỜNG NHỊN:
NHÌN TỪ TRUYỀN THỐNG VÀ VĂN HÓA
                                                                   TS. Bùi Văn Hưng(*)

 1. Sự nhường nhịn - Yếu tố quan trọng đưa đến sự hòa hợp, đoàn kết, thân ái trong truyền thống người Việt nam
Nói sự nhường nhịn là yếu tố quan trọng đưa đến sự hòa hợp, đoàn kết thân ái vì trước hết, nhường nhịn làm cho người ta quý mến, chịu ơn mình. Ví dụ, chúng ta có một món đồ đẹp nhưng thấy người bạn thích quá nên nhường cho họ. Khi nhận món quà mình nhường lại, chắc chắn người bạn sẽ thương quý mình hơn.  Đó là kết duyên lành với người khác.
Ngược dòng lịch sử, nhiều ngàn năm dựng nước và giữ nước để phát triển cho đến ngày nay, dân tộc Việt Nam trải bao thăng trầm, gian khó. Đất nước trải qua bao đau thương vì chiến tranh tàn phá nhưng cũng để lại nhiều câu chuyện quý báu về tình đoàn kết hay những bài học quý giá về ứng xử nhường nhịn vì sự nghiệp chống ngoại xâm, vì sự trường tồn của dân tộc, như: Thái hậu Dương Vân Nga nhường ngôi của con nhỏ của mình cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn (941-1005)  để cùng lo việc nước, chống quân Tống xâm lược. Trần Hưng Đạo (1232-1300) không vì mối thù gia tộc của cha mà cướp ngôi vua nên tránh được cảnh huynh đệ tương tàn, có thể dẫn đến nguy cơ mất nước. Ngài cũng đã có cách ứng xử nhường nhịn thật vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược (1285-1288). Chuyện kể rằng, là một Tiết chế Quốc công đứng đầu toàn quân Đại Việt, Ngài đã hạ mình tắm rửa cho Tướng quân Trần Quang Khải tạo được sự hòa hợp, đoàn kết, thân ái, góp phần không nhỏ cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại đó. Nhà Trần còn có một truyền thống tốt đẹp về sự nhường nhịn, đó là các vua cha thường nhường ngôi cho con khi mình đang khỏe mạnh, vừa tạo điều kiện cho con đảm đương việc nước khi còn trẻ khỏe, vừa tránh được cảnh tranh giành khi vua cha mất. Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược (1418-1428) rất gian nan, khốc liệt nhưng nhờ tướng sỹ biết nhường nhịn nhau “tướng sỹ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) nên đã giành lại độc lập sau 10 năm kháng chiến, viết nên bản Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai cho dân tộc việt Nam.
Truyền thống nhường nhịn không chỉ thể hiện ở chốn cung đình mà ở đời thường, người dân cũng thấm nhuần văn hóa đó. Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng thấm đẫm những lời khuyên: “Nhường cơm sẻ áo”, “một điều nhịn, chín điều lành”,  “Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa mấy đời cơm khê” , “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,  Có đi có lại mới toại lòng nhau “, Kính lão đắc thọ” , “Kính trên, nhường dưới”,  Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời”… , và trong kháng chiến chống thực dân Pháp: “thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. Gần đây nhất, trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, với khẩu trong dân gian “xe chưa qua, nhà không tiếc”, người dân Quảng Bình, Hà Tĩnh đã sẵn sàng dỡ nhà, tài sản cả một đời người để lấp hố bom lót đường cho xe qua chở hàng ra tiền tuyến. Đó là sự nhường nhịn, chia sẻ vĩ đại.
2. Thử lý giải nguyên nhân của các hiện tượng thiếu nhường nhịn hiện nay nhìn từ truyền thống
Ngày nay, khi mà xã hội đã có cuộc sống đầy đủ hơn thì con người Việt Nam có vẻ như thiếu nhường nhin, biểu hiện ở giao thông, ở tranh cướp ở các lễ hội, cảnh hôi của khi có người bị tai nạn, khi được phát miễn phí một hàng hóa hoặc dịch vụ khuyến mại nào đó… Đành rằng là hiện tượng chưa phổ biến, nhưng cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho xã hội.
Thử tìm nguyên nhân từ cách nhìn truyền thống, ta thấy, trước tiên, thời nào mà “vua sáng, tôi hiền” thì đất nước thịnh trị, người dân ít tham hơn. Ví như thời vua Lê Thánh Tông, Triều Lê, về sau khi triều đại đó đã suy đồi trong dân gian thường nhắc lại câu ca: “Nhớ thời Thánh Tổ, Thánh Tông, lúa chín đầy đồng dân chẳng phải lo”. Điều đó cho thấy, ở những thời kỳ thịnh trị mọi người thường nhường nhịn nhau. Tuy nhiên, ở những lúc khó khăn mà vua quan chăm lo việc nước thì người dân cũng vẫn hòa thuận, nhường nhịn nhau, như đã nêu ở trên. Mặt khác, xã hội Việt Nam cho đến nay vẫn còn là một xã hội mang nặng tính chất gia trưởng và tính “thần dân”, chưa có được một cách đầy đủ “người công dân”, nên người dưới luôn nhìn vào người trên để hành xử kể cả mặt tốt lẫn mặt xấu chứ chưa căn cứ chủ yếu vào pháp luật và đạo đức để hành xử. Do vậy, đành rằng mặt tốt của xã hội vẫn là cơ bản mới đảm bảo cho sự trường tồn của dân tộc, nhưng mặt xấu có lúc, có nơi đã lấn át.
Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến vai trò của trí thức trong xã hội. Trí thức như một ăng ten nhạy cảm thu nhận và cảnh báo sự hưng vong của một triều đại, chế độ, đồng thời, họ đóng vai trò quan trọng cứu nguy khỏi sự sụp đổ khi còn có thể và thay đổi khi không thể duy trì sự suy vong đó. Nhà bác học Lê Quy Đôn (1726-1784) đã nói, “Trẻ không trọng già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sỹ phu ngoảnh mặt, xã tắc lâm nguy” để nói sự thiếu nhường nhịn trong xã hội và xác định vai trò của quan lại, trí thức trong xã hội, có lẻ vẫn là bài học nóng hổi cho đến ngày nay. Một thời kỳ mà trí thức nhu nhược, “ăn theo nói leo” hoặc a dua với cái suy đồi thì khó mong xã hội có ứng xử nhường nhịn từ trên xuống dưới được.
Xét đến vai trò trí thức rất quan trọng, nhưng có lẽ vấn đề thứ ba rất quan trọng đó là giáo dục. Nền giáo dục trong truyền thống ở nước ta, về cơ bản là nền giáo dục Nho giáo, trong dân gian thì có ảnh hưởng về Phật giáo. Nền giáo dục này luôn dạy con người phải tuân thủ mọi quy tắc, mà những quy tắc này có thể tồn tại hàng ngàn năm ít thay đổi. Khi chuyển đổi sang nền giáo dục xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô, Trung Quốc vẫn mang nặng những tàn dư của giáo dục trong xã hội phát triển ở mức độ còn thấp và ít thay đổi. Nó dạy con người vẫn chủ yếu là tuân thủ. Tính sáng tạo của nền giáo dục này vẫn chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Chính điều này nó làm hạn chế sự phát triển và khi con người muốn vượt qua nó sẽ tạo nên phản ứng xã hội để biểu hiện cái tôi cả mặt tốt lẫn mặt xấu.
Một mặt không kém phần quan trọng, đó là, văn hóa. Văn hóa có thể phân chia theo nhiều cách, nhưng, theo chúng tôi, văn hóa nhìn từ bề ngoài vào cốt lõi thì có thể có ba tầng: tầng ngoài cùng nông nhất là văn hóa vật chất với những biểu hiện thiên hình vạn trạng, tầng thứ hai sâu hơn là văn hóa hành vi và tầng trong cùng, sâu nhất là văn hóa quan niệm. Văn hóa quan niệm chỉ đạo hành vi và các biểu hiện văn hóa vật chất. Khi các tầng văn hóa này mâu thuẫn sẽ tạo nên sự xung đột. Nó xảy ra trong từng con người, cộng đồng và xã hội. Việc xác định định hướng văn hóa quan niệm rất quan trọng vì nó cho ta niềm tin để bước tiếp đến tương lai. Không có nó ta như người mù đi giữa các đống vật chất bề bộn mà chẳng biết đi theo phương nào. Càng khó khăn hơn khi quan niệm ngược lại sự phát triển. Tất cả phụ thuộc vào lãnh đạo đất nước và vai trò không nhỏ của đội ngũ trí thức. Hy vọng rằng, đất nước sẽ có những định hướng phù hợp với sự phát triển hơn trong thời gian tới./.





(*)Nguyên Chánh Văn phòng Hội đồng LLTW

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét