Bài đăng nổi bật

Việt Nam nhìn từ Chủ thuyết phát triển

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2018

Triết lý giáo dục Nho giáo trong giáo dục văn hóa nhường nhịn qua bộ Quốc văn giáo khoa thư

Một tiết cận về đạo đức Nho gia không thể bỏ qua khi nghiên cứu về Xã hội nhường nhịn!
Cảm ơn TS Lê Thị Ngọc Điệp đã tham gia viết bài cho đề tài!

Tóm tắt
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, sự phát triển của kinh tế thị trường và toàn cầu hoá đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến những giá trị văn hoá, ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống của một bộ phận trong xã hội. Đặc biệt là sự thiếu nhường nhịn - một trong những biểu hiện quan trọng của văn hóa ứng xử trong xã hội ngày một gia tăng, trái với truyền thống văn hóa Việt Nam luôn nhẫn nại, nhường nhịn.
Bài viết đặt vấn đề nghiên cứu giá trị của triết lý giáo dục Nho giáo trong giáo dục con người, giáo dục tính cách, giáo dục tính nhường nhịn trong truyền thống văn hóa Việt Nam, qua bộ Quốc văn giáo khoa thư. Từ đó nhìn nhận, đánh giá vai trò của Nho giáo trong giáo dục đạo đức nhường nhịn của đời sống đương đại ở Việt Nam trong môi trường thế giới phẳng hiện nay.
Từ khoá: Giáo dục, Nho giáo, Văn hóa nhường nhịn, Việt Nam

Dẫn nhập
Nho giáo là một học thuyết đạo đức – chính trị được sáng lập bởi Khổng Tử (551 – 479 TCN) vào thời Xuân Thu - Chiến quốc. Nho giáo đề cao vai trò của đạo đức đối với xã hội, vì vậy giáo dục đạo đức, luân lý luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu của truyền thống giáo dục Nho giáo. Hiện diện trong nhiều thế kỷ như một mô hình tổ chức và quản lý xã hội mang tính chất chính thống, Nho giáo đã để lại ảnh hưởng sâu đậm của nó trong lịch sử, văn hóa của nhiều nước Á Đông trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, với sự phát triển của kinh tế thị trường và toàn cầu hoá đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến những giá trị văn hoá, các quan hệ trong gia đình, trong xã hội bị đảo lộn; các gia phong, phép tắc, lễ nghi trong ứng xử mai một dần; các hiện tượng không đẹp diễn ra thường xuyên trong đời sống hàng ngày và ngày càng gia tăng liên quan đến sự thiếu nhường nhịn. Một thế hệ mới với những giá trị sống mới nhưng đồng nghĩa với nó là những va chạm và đổ vỡ với chuẩn mực cũ, đó cũng là xung đột giữa thế hệ cũ và thế hệ mới, giữa truyền thống và hiện đại. Sự thay đổi giá trị sống của mỗi cá nhân dẫn đến thế hệ trẻ có những đòi hỏi mới về cách thức ứng xử với họ trong cuộc sống nói chung, trong giáo dục đạo đức nói riêng.
Như vậy, phải chăng một hình mẫu sống và giá trị sống hôm nay đang có sự thay đổi rõ rệt? Trước tình trạng đó, chúng ta cần xem xét, phân tích những giá trị giáo dục của Nho giáo trong văn hóa đạo đức ứng xử về đức tính nhường nhịn của người Việt, trong các mối quan hệ gia đình và xã hội để nhìn nhận lại, đánh giá lại những giá trị nào sẽ được giữ lại, những giá trị nào cần thay thế, và những đổi thay nào được chấp nhận.
Bài viết chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu triết lý giáo dục của Nho giáo được thể hiện cụ thể qua Quốc văn Giáo khoa thư là sách giáo khoa tiếng Việt được xuất bản từ những năm 1930, đã được dạy ở các trường tiểu học Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ XX gồm các lớp Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng. Với cách hành văn giản dị, chân phương, gãy gọn sách đã vận dụng được nhiều kiến thức lịch sử, xã hội từ truyền thống đến hiện đại, những giá trị đạo lý từ Đông sang Tây … Những bài học trong bộ sách này góp phần bồi dưỡng những kiến thức nền tảng dạy các em nên người, cách ứng xử, đối nhân xử thế trong gia đình, trường học, và bên ngoài xã hội. Từ truyền thống giáo dục Nho giáo này theo quan điểm chúng tôi, đây chính là một trong những cơ sở hình thành văn hóa nhường nhịn của người Việt, qua đó phần nào lý giải những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu nhường nhịn của văn hóa ứng xử trong bối cảnh hiện nay.

1. Triết lý giáo dục của Khổng Tử

Nho giáo ra đời ở Trung Hoa trong bối cảnh xã hội loạn lạc, đời sống người dân đói khổ, cơ cực. Đó cũng là điều kiện xuất hiện Bách gia chư tử - là thời kỳ Trung Hoa mở rộng về văn hóa và trí thức (770 – 222 TCN) mỗi vị đi tìm một phương cách riêng để bình ổn xã hội, đưa Trung Hoa thoát khỏi chiến tranh loạn lạc. Khổng Tử đề xuất “trung dung là chính sách hay nhất”, do vậy cần phải có “đức trị”. Mục tiêu cao nhất của học thuyết Nho giáo là đào tạo người quân tử vừa có đức vừa có tài để tham gia quản lý xã hội[1].
Khổng Tử đề cao vai trò của giáo dục, ông cho rằng giáo dục là cần thiết cho tất cả mọi người, bên cạnh việc dạy chữ, ông rất chú trọng vào việc dạy người. Đối với Khổng Tử, vai trò quan trọng nhất của giáo dục là cải tạo con người, giáo dục con người hướng tới những phẩm chất cao quý như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Tư tưởng giáo dục hạt nhân của Khổng Tử trong Nho giáo là chữ “NHÂN”. Để thực hiện được Nhân, con người phải có “ĐẠO” (Đạo ở đây là đạo đức, là lòng yêu thương con người, yêu thương muôn loài); phải thực hành “LỄ” (Lễ là quy phạm đạo đức trong ứng xử). Khổng Tử chú trọng vào giáo dục con người trong mối quan hệ gia đình và xã hội, đề cao thuyết Đức trị. Đây là nội dung quan trọng của Nho giáo, có tác dụng giáo hoá con người, xem đó là phương cách tốt nhất để bình ổn xã hội, tiến tới xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị.
Khi bàn về vai trò của giáo dục, ngoài phương diện hình thành nhân cách cá nhân,  Khổng Tử cũng rất chú trọng đến phương diện dân tộc, ông cho rằng giáo dục đóng vai trò quan trọng, quyết định vận mệnh của một dân tộc: “giáo dục phát triển trí đức là chìa khoá để phát triển kinh tế; đồng thời phát triển kinh tế là cơ sở cho phát triển giáo dục và dân trí[2].
Trong Luận ngữ, Khổng Tử đã nói: "Dùng đạo đức làm đường lối chính trị thì ví như sao Bắc Đẩu ở một chỗ nhất định mà các vì sao khác đều hướng về"[3]. Vì vậy, những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín vừa là chuẩn mực để điều chỉnh hành vi của con người, vừa là những biện pháp để bảo đảm cho xã hội, chính trị, nhân nghĩa được thực hiện.
Về mục đích giáo dục, Khổng Tử hướng đến ba mục đích cơ bản: (1) Học để ứng dụng những gì có ích, có lợi vào thực tế cuộc sống chứ không phải học để làm quan, để hưởng bổng lộc; (2) Học để hoàn thành nhân cách, học cho bản thân mình, học để biết phân biệt đúng - sai, phải – trái, thực – hư, biết ứng xử nhân nghĩa; (3) Học để tìm ra chân lý, tu sửa đạo lý, không phải vì mục đích cầu lợi[4].
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ Nho giáo, tư tưởng lễ giáo đạo Nho như một dòng chảy ngầm đã liên tục đặt xã hội Việt Nam trước đây trong hệ thống chuẩn mực được qui định một cách chặt chẽ bởi các mối quan hệ, trong đó những quan hệ cơ bản nhất là tam cương và ngũ luân. Tư tưởng này cũng được đưa vào giảng dạy trong Quốc văn Giáo khoa thư ở các trường tiểu học với đối tượng giáo dục là các trẻ nhỏ, từ lớp đồng ấu đến lớp sơ đẳng. Mục đích của Nho giáo là giáo dục những tri thức cơ bản về tu thân, luân lý đạo đức cho trẻ nhỏ ngay từ lứa tuổi này, giúp chúng nhận biết đúng sai, biết cách ứng xử, biết trách nhiệm của mình, từ đó hướng đến xây dựng những con người có đạo đức, có nhân cách trong xã hội.

2. Giáo dục văn hoá nhường nhịn qua Quốc văn Giáo khoa thư

2.1. Giáo dục văn hóa nhường nhịn trong gia đình

Gia đình là một giá trị văn hóa thấm sâu vào tư tưởng tình cảm, lý tưởng sống của con người, mọi hoạt động của gia đình đều biểu hiện đặc trưng văn hóa của con người. Hệ thống giá trị văn hóa của gia đình khi đã hình thành có vai trò chi phối, điều tiết các quan hệ của gia đình, chi phối các phương thức ứng xử của các thành viên trong gia đình, đồng thời được thể chế hóa thành gia đạo, gia huấn, gia lễ. Hệ thống giá trị đó là cơ sở tồn tại của gia đình và giữ cho đời sống gia đình được bền vững, an sinh và hạnh phúc, góp phần cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Ở khu vực Châu Á, quan hệ đạo đức, luân lý, giá trị gia đình đã có đóng góp quan trọng vào quá trình hiện đại hoá một số nước phương Đông như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc... Để phát huy giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống của người phương Đông, điều cơ bản nhất là phải bắt rễ từ gia đình. Gia đình là cầu nối căn bản giữa những giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Không ở đâu lại diễn ra xung đột thường xuyên giữa các thế hệ, xung đột giữa cái truyền thống và cái hiện đại... như ở gia đình. Gia đình chính là nơi diễn ra quá trình thay đổi các quan điểm về các chuẩn mực trong hành vi ứng xử, trong thái độ, tình cảm, xúc cảm khi va chạm với những giá trị, những quan điểm trái ngược, đặc biệt gia đình giữ vai trò quan trọng trong giáo dục, hình thành nhân cách của trẻ em ở bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay.

Gia đình là một tổ chức xã hội đặc biệt, trong đó các thành viên trong gia đình ràng buộc với nhau bởi mối quan hệ huyết thống, bằng tình thương yêu và trách nhiệm thiêng liêng. Gia đình chính là chỗ dựa tinh thần, sự cổ vũ, niềm động viên an ủi của mỗi cá nhân. Hoạt động của gia đình luôn có sự gắn kết chặt chẽ với xã hội, theo định hướng của xã hội trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Trong lịch sử, giai cấp phong kiến Việt Nam chủ trương xây dựng gia đình theo những khuôn mẫu của lễ giáo Nho giáo. Những bài học trong Quốc văn Giáo khoa thư góp phần bồi dưỡng những vốn kiến thức cơ bản để hình thành nhân cách cá nhân, xây dựng mối quan hệ trong gia đình, những giá trị đạo đức làm người, ứng xử. Theo thống kê trong 55 bài học về các vấn đề trong cuộc sống ở cấp độ đồng ấu, có 21 bài học về giáo dục đạo đức gia đình, được phân bố tản mát, không tập trung theo chủ đề.

2.1.1.  Quan hệ giữa cha mẹ và con cái

Gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo về luân lý, đạo đức của con người. Trong gia đình, người phụ nữ phải công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức; quan niệm Tam cương đề cao uy quyền của người cha và trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình.
Gia đình là cái nôi văn hóa đầu tiên hình thành nhân cách cho trẻ, vai trò của cha mẹ có vị trí quan trọng trong việc giáo dục nhân cách của trẻ. Theo truyền thống văn hoá Việt Nam, người cha là chủ của gia đình, là trụ cột, là biểu hiện của nhân cách văn hóa để con cái học tập và noi theo; người mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm yêu thương trong gia đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con. Trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, chữ hiếu được đề cao và nhấn mạnh, “hiếu” không chỉ là trách nhiệm mà còn là phẩm chất lớn nhất của đạo làm con.
Cha mẹ sinh ra con, nuôi cho con lớn, lại chăm cho con học, vậy kẻ làm con phải biết yêu cha mẹ[5], “làm con cái phải phụ giúp cha mẹ các việc trong nhà để cha mẹ đỡ nhọc nhằn và người con cũng nuôi dưỡng được chữ hiếu[6], “phải sớm thăm, tối viếng cha mẹ… luôn quan tâm đến sức khoẻ ông bà cha mẹ[7], “Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con[8]. Luôn lễ phép, một lòng tôn kính công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, Bảo vâng, gọi dạ con ơi! Vâng lời sau trước, con thời chớ quên. Công cha, nghĩa mẹ khôn đền, Vào thưa ra gửi, mới nên con người[9], “làm con phải vâng lời cha mẹ, … không nghe lời cha mẹ thường hay hại đến thân “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư[10].

2.1.2. Các mối quan hệ huyết thống khác trong gia đình, dòng họ

Trong gia đình, ngoài mối qua hệ giữa cha, mẹ - con cái, còn có mối quan hệ giữa ông bà, chú, bác, cô, dì và các cháu, anh chị và các em. Mối quan hệ này càng bền chặt thì càng làm phong phú thêm đời sống tinh thần của các cá nhân trong gia đình.
Trong quan hệ giữa ông bà và cháu, ông bà như cha mẹ thương yêu, chăm sóc giáo dục con cháu sống mẫu mực, răn dạy con cháu của mình “giảng giải những điều hay điều tốt[11]. Người làm cháu cũng phải có bổn phận chăm sóc, kính mến ông bà như cha mẹ, “vì có ông bà mới có cha mẹ, càng yêu thương cha mẹ mình thì càng biết ơn ông bà mình… phải làm cho tuổi già ông bà được vui vẻ, có thêm nguồn động viên an ủi trong lúc xế chiều cuộc đời[12]
Gia đình Việt Nam rất coi trọng mối quan hệ huyết thống “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, vì vậy trong gia đình, dòng tộc, hệ thống xưng hô “có sự phân biệt rõ ràng đối với từng vị trí, từng mối quan hệ trong gia đình, chứ không có tiếng gọi chung tổng quát như nhiều dân tộc khác[13]. Trong gia đình, dòng họ, tinh thần tương thân, tương ái, hỗ trợ, bảo bọc lẫn nhau rất cao “sảy cha còn mẹ, sảy mẹ bú dì”, vì vậy “chú, bác, cô, dì, cậu, mợ những bậc ngang hàng với cha mẹ mình, cũng dự phần vui buồn với cha mẹ mình. Là con cháu, phải kính mến các bậc ấy như cha mẹ[14].
Trong gia đình, có sự phân công lao động rõ ràng, ai cũng có trách nhiệm và công việc của mình, không lười biếng, ăn bám dựa dẫm vào người khác. “Cha và anh tôi cày cuốc ngoài đồng. Mẹ tôi buôn bán ngoài chợ. Chị tôi may và quần áo, trông nom nhà cửa bếp núc. Tôi còn bé, phải cố gắng học để sau này lớn lên, tôi cũng làm việc giúp đỡ mọi người[15]. Ai cũng có trách nhiệm  đối với bản thân, đối với gia đình của mình, còn nhỏ làm việc nhỏ tuỳ theo sức của mình, phải xốc vác, không đùn đẩy, ỷ lại vào người khác.
Anh em trong gia đình, dòng họ phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau “Anh em nào phải người xa. Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân. Anh em hoà thuận hai thân vui vầy[16], anh em trong một nhà phải đoàn kết “muốn có sức mạnh thì phải hợp quần, phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau thì mới đủ thế lực mà đối với người ngoài” ví như “từng chiếc đũa thì dễ bẻ gãy, nhưng cả bó đũa thì khó mà bẻ được[17]. Thời phong kiến xưa, mọi sinh hoạt đều tập trung trong đại gia đình, nếu anh em sống hoà thuận, không chia rẽ, phân ly thì sẽ được hàng xóm láng giềng khen ngợi, sống đúng đạo lý ở đời. Ngày nay xã hội đã phát triển, lối sống tập trung tam, tứ đại đồng đường không còn thích hợp, lối sống kiểu gia đình hạt nhân ngày nay cũng không ảnh hưởng đến tình nghĩa gia đình nếu mỗi thành viên trong gia đình biết có trách nhiệm và ứng xử đúng đạo lý.
Tình cảm anh, chị em trong gia đình là tình cảm máu mủ ruột thịt, không dễ gì mà thay đổi được. Khi cha mẹ già yếu hay chẳng may mất đi thì anh chị sẽ là người thay cha mẹ chăm sóc nuôi dưỡng các em nên người, khi anh chị gặp khó khăn thì các em sẵn sàng chia sẻ, chăm nom, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, trong cuộc sống, một số người khi bắt đầu giàu sang, có quyền cao chức trọng, thường dễ coi nhẹ tình cảm với anh em trong gia đình, nhưng nhân vật Lý Tích trong tích xưa Lòng kính yêu chị[18] lại không hành xử như vậy. Ông làm quan to đời xưa, tuổi đã già, khi chị bị đau ốm, ông tự tay nấu cháo cho chị ăn. Chị ông thấy em nấu cháo cháy cả râu, xót xa ngăn cản ông để cho đầy tớ làm, ông đáp lại chị rằng: “Nay chị đã già, mà em cũng già rồi, dẫu em muốn nấu cháo cho chị ăn mãi, phỏng đã dễ mà được sao”, thật là một tấm lòng hiếu thuận của người em kính yêu đối với chị của mình, không quan cách, coi trọng tình cảm chị em máu mủ ruột thịt.

2.1.3. Giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”

Bên cạnh những bài học về các mối quan hệ trong gia đình, Quốc văn Giáo khoa thư còn cung cấp cho trẻ những kiến thức về văn hoá truyền thống của dân tộc, hướng trẻ theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, phải nhớ ơn tổ tiên đã sinh ra ông bà, cha mẹ mình, “ngày giỗ, ngày tết con cháu đều đến tại nhà trưởng tộc mà cúng lễ tổ tiên[19]; hiểu biết về những nghi thức cúng giỗ “để nhớ về tư đức, công đức của người quá cố[20]; hiểu về gia phả “để trở về nguồn trong phạm vi gia đình. Giữ gìn gia phả còn là giữ gìn truyền thống của gia đình[21]. Truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam rất tôn trọng ông bà, cha mẹ. Khi ông bà, cha mẹ còn sống, con cháu phải kính dưỡng chu đáo, khi ông bà, cha mẹ chết, con cháu phải chôn cất, cúng giỗ, thờ phụng để tưởng nhớ công đức, ân nghĩa sinh thành dưỡng dục của ông bà cha mẹ.

2.2. Giáo dục văn hoá nhường nhịn ngoài xã hội

Ngoài giáo dục những giá trị đạo đức quan trọng trong gia đình – một trong những tiền căn cốt hình thành văn hóa nhường nhịn, những bài học trong Quốc văn Giáo khoa thư còn đề cập đế những mối quan hệ ứng xử bên ngoài xã hội. Theo thống kê có 49 bài học liên quan đến nội dung này.
2.2.1. Quan hệ giữa thầy trò, quan hệ bạn học
Trong xã hội xưa, Nho giáo được xem như thước đo của sự thành đạt và địa vị, chỉ những người có học thức, vì vậy, người Thầy có vị trí rất quan trọng, tất cả những đạo lý thầy dạy là học trò đều phải nghe theo. “Ở trường học, thầy dạy gì tôi phải nghe, thầy bảo gì tôi phải làm, tôi vâng lời thầy… Tôi thật bụng kính mến thầy tôi chẳng khác gì kính mến cha mẹ vậy”[22]. Trong xã hội phong kiến, vua ở vị trí cao nhất, đến thầy dạy rồi mới đến cha, do đó yêu kính cha mẹ như thế nào thì cũng phải yêu kính thầy dạy như vậy.
Mối quan hệ thầy trò xưa không chỉ là sự tri ân mà còn là sự nể phục, kính trọng, mối quan hệ tình nghĩa, xem thầy như tấm gương đạo đức với lối sống chuẩn mực, liêm khiết để học trò noi theo. Theo quan điểm của Khổng Tử, người thầy đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học. Người thầy là người truyền đạt kiến thức, hướng dẫn cho học trò phương pháp tự học, định hướng cho học trò có thể ứng phó trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống. Vì vậy, người thầy ngoài kiến thức uyên bác, hiểu biết nhiều, tận tuỵ với sự nghiệp giáo dục, thương yêu học trò; còn phải có tư cách, có phẩm chất đạo đức, là tấm gương sáng cho học trò noi theo, hoàn thiện bản thân mình, hướng đến những giá trị tốt đẹp của đạo đức, nhân cách.
Ngoài quan hệ thầy trò, quan hệ đồng môn, bạn học cũng rất được Nho giáo chú trọng. “Ở trường học, anh em bạn học phải đối xử bình đẳng với nhau, xem nhau như anh em một nhà, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, đến khi ra đời vẫn còn có vốn liếng tình cảm quý báu từ các bạn hữu thuở thiếu thời”[23]. Đi học, “phải cố gắng trở thành người học trò tốt, đi học chăm chỉ, đúng giờ, lễ phép với thầy, tử tế với bạn”[24] sẽ là tấm gương cho các bạn học noi theo; “nếu biếng nhác, khó bảo, lơ đễnh, vô phép là chính mình đang tự phá hoại trí tuệ, nhân cách của mình, tương lai sẽ hết sức tối tăm”[25]. Chúng ta phải quý trọng cuộc sống của chính mình và nỗ lực làm cho cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn, phải chuẩn bị tương lai ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, “phải chịu khó học hành để biết luân lý, cho hiểu cách ăn ở để trở thành người con hiếu thảo trong gia đình và là công dân tốt ngoài xã hội”[26].

2.2.2. Giáo dục những bài học làm người, cách ứng xử, nhường nhịn trong sinh hoạt hàng ngày

Trong mối quan hệ xã hội, những bài học giáo dục giá trị nhân cách con người, có trách nhiệm với bản thân mình, có trách nhiệm với xã hội. “Ở sao có đức có nhân, mới mong đời trị được ăn lộc trời”, phải biết yêu thương kẻ tôi tớ trong nhà, “Kẻ ăn người ở trong nhà. Sớm khuya công việc giúp ta nhọc nhằn. Thương người đầy đoạ chút thân, Chớ nên ngược đãi lòng nhân mới là[27]; dạy từ lời ăn tiếng nói “phải lễ phép tôn trọng người khác[28], “đi phải thưa về phải trình[29]; sinh hoạt phải điều độ, không thức khuya, dậy trưa “dậy trưa thì nặng nề khó chịu lại sinh ra lười biếng. Người ta thức, ngủ phải có điều độ mới được[30], “thân thể phải năng vận động[31]… phải giữ gìn sức khoẻ cả thể chất lẫn tinh thần, một cơ thể khoẻ mạnh thì sẽ có một tinh thần sáng suốt, quan niệm sống đúng đắn, có lòng tốt với mọi người.
Phải biết kính trọng người già cả[32], phải biết chọn bạn mà chơi[33], bởi lẽ chúng ta rất dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống, nhất là khi còn bé, chưa biết phân biệt tốt – xấu, dở - hay, chưa đủ nghị lực để chống lại cám dỗ. Trong cuộc sống, con người không thể tồn tại độc lập, chúng ta sống trong tổng hòa các mối quan hệ, vì vậy phải biết lo nghĩ, quan tâm đến nhau, “giúp đỡ lẫn nhau”[34], không chỉ trong gia đình mà còn bên ngoài xã hội. “Biết tôn trọng người nghèo, người tàn tật, cảm thông với nỗi bất hạnh của người khác, đó là biểu hiện của nếp sống văn minh”[35]; “có quan tâm, lo nghĩ đến nhau, lòng nhân ái mới phát triển, xã hội mới tiến bộ, đời sống được nâng cao”[36].
Xã hội xưa rất coi trọng giáo dục phép tắc, giáo dục văn hóa ứng xử, những bài học nhỏ nhưng triết lý lớn, đừng nên chỉ chú trọng bề ngoài, “cần phải chú trọng cả vẻ đẹp hình thức lẫn vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt vẻ đẹp tâm hồn làm nên phẩm giá con người, là người có kiến thức, có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và xã hội. Còn chỉ lo chải chuốt phần bề ngoài là tự tố cáo sự nghèo nàn về tinh thần, sự sa sút về nhân cách”[37]. Sống phải tuân theo pháp luật[38], biết nhường nhịn, biết chia sẻ, thương người như thể thương thân[39]; có học phải có hạnh[40]; không nên tham của người[41]; không vì tiền làm điều phi nghĩa[42]; Phải biết sửa mình[43], kẻ xấu thường nuôi dưỡng cái ác, người tốt cố gắng làm điều thiện để đẩy lùi cái ác… “Người xưa rất nghiêm túc về việc này, thậm chí dạy con ngay từ khi là một bào thai và có những bậc hiền triết lúc gần chết vẫn không chịu nằm trên chiếc chiếu lệch”[44], vì vậy chúng ta phải có kỷ luật cao với bản thân và có trách nhiệm với xã hội về hành vi, về cách thức ứng xử của mình.
Trong lịch sử, giai cấp phong kiến Việt Nam chủ trương xây dựng gia đình theo những khuôn mẫu của lễ giáo Nho giáo. Qua những bài học đơn giản, ngắn gọn, dễ nhớ, rất gần gũi và quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, Quốc văn Giáo khoa thư đã cung cấp những kiến thức cơ bản về lễ nghi, phép tắc, cách thức ứng xử, sinh hoạt trong gia đình và ngoài xã hội, được xem là tiền đề căn cốt cho việc hình thành văn hóa nhường nhịn.

3. Giáo dục văn hoá nhường nhịn trong bối cảnh xã hội hiện nay

3.1. Thực trạng biểu hiện của văn hóa nhường nhịn trong xã hội hiện nay

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, với sự phát triển của kinh tế thị trường và toàn cầu hoá đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến những giá trị văn hoá, nhất là ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống của một số bộ phận người trong xã hội, có tâm lý sống thực dụng, thờ ơ, buông thả, sùng bái đồng tiền, quay lưng lại với những giá trị văn hoá đạo đức truyền thống.
Trong gia đình, các mối quan hệ trở nên lỏng lẻo, có những biến đổi mạnh mẽ về cấu trúc, hình thái trong gia đình. Những giá trị chuẩn mực truyền thống đã và đang bị tác động thay đổi. Mâu thuẫn, xung đột trong gia đình ngày một gia tăng, bạo hành trong gia đình ngày càng nghiêm trọng nhất là bạo hành của chồng đối với vợ, bạo hành cha mẹ với con cái; số lượng các vụ ly hôn ngày càng nhều; một bộ phận gia đình đã không còn là tổ ấm đối với các thành viên trong gia đình; mối quan tâm chăm sóc của cha mẹ với con cái ngày càng suy giảm, cha mẹ lăn lộn để mưu sinh, phó thác con cái cho nhà trường và xã hội… Tất cả những biểu hiện này đã dẫn đến nền tảng, đạo đức nhân cách của một bộ phận lớp trẻ đang có nguy cơ bị suy giảm bởi chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân dễ dẫn đến lệch lạc trong cuộc sống, định hướng tương lai, dễ rơi vào những vòng xoáy của các tệ nạn xã hội như đâm chém., trộm cắp, cướp giật, cờ bạc, nghiện hút…
Trong lĩnh vực giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức cho học sinh vẫn còn nhiều bất cập. Bạo lực học đường cũng xuất hiện và phát triển: thầy đánh trò, trò đánh thầy, học trò đánh nhau, những hình ảnh nữ sinh đánh nhau thật đau lòng… những chuyện rất bình thường cũng giải quyết bằng bạo lực; vi phạm qui chế thi trở nên phổ biến; ma túy, tệ nạn trở thành tệ nạn học đường; cái thời cha mẹ dắt con cái đến lạy thầy, lễ thầy đã gần như không còn, học trò thời nay rời cánh cổng nhà trường gần như đã quên thầy cô cũ; ngày xưa trò xem thầy như cha như mẹ với lòng thành kính biết ơn, thì ngày nay đạo lý tôn sư trọng đạo đã suy giảm nhiều; ngày xưa những chuyến đò của người thầy đưa trò qua sông chở nặng chữ thánh hiền, thì ngày nay chở nặng kiến thức theo kiểu nhồi nhét; ngày xưa giá trị người thầy được suy tôn thì ngày nay phải chăng những giá trị vật chất đã làm giảm đi sự tôn vinh của xã hội đối với giá trị của người thầy, nó đã trở thành mối quan hệ trao đổi qua lại với đầy đủ động cơ và mục đích. Gần đây nhất vụ việc phụ huynh học sinh bắt cô giáo phải quỳ gối suốt 40 phút chỉ vì cô giáo đã bắt con mình quỳ trong lớp, vụ việc học sinh bóp cổ cô giáo … đã đánh lên một hồi chuông cảnh báo về thực trạng sự suy giảm các giá trị đao đức trong các mối quan hệ ở nhà trường hiện nay.
Trong xã hội, nhiều biểu hiện, nhiều hiện tượng nhức nhối diễn ra hàng ngày: những vụ cướp của giết người, thanh toán giữa các băng nhóm xã hội đen ngày càng tàn bạo, ngay trong cuộc sống đời thường những người dân bình thường hiền lành, chất phát mà nay cũng dễ dàng trở thành tội phạm chỉ vì sự thiếu nhường nhịn, thiếu nhẫn nại; chen lấn dẫm đạp nhau để mua vé, để xin lộc, để xin trường cho con, để mua hàng giảm giá, để có suất ăn, suất vào cửa khu vui chơi miễn phí … đã trở nên phổ biến; thói quen bao lực đã len cả vào giới công chức, trong các cơ quan công sở; cái kiểu “ăn vạ”, “ vừa ăn cướp vừa la làng”, chống lại người thi hành công vụ đã trở thành hiện tượng khá phổ biến trong xã hội.
Không tôn trọng luật lệ, qui định khi tham gia giao thông khá phổ biến, hành vi leo lề, lấn tuyến đã trở thành thói quen của không ít người; mạnh ai người đấy phóng, không ai nhường ai, thời gian đợi đèn tín hiệu giao thông chỉ lâu một chút là dẫn đến tắc nghẽn ngay. Thật xấu hổ khi nghe một người nước ngoài nhận xét “thật ngưỡng mộ người Việt các bạn trong giao thông, các bạn đặt ra mục tiêu tiến về phía trước và bằng mọi cách phải đạt được mục tiêu của mình; vượt qua tất cả rào cản, bất chấp tín hiệu đèn, bất chấp đông người, bất chấp đông xe…
Tình hình trên gây ảnh hưởng trực tiếp đến những giá trị văn hoá, đặc biệt là đã và đang tác động đến lớp trẻ, người chủ tương lai của đất nước về ý thức chính trị, tâm trạng, đạo đức, lối sống v.v…

3.2. Nguyên nhân dẫn đến việc suy giảm những giá trị văn hoá đạo đức, lối sống trong xã hội

Đất nước ta thường xuyên bị các thế lực bên ngoài xâm lược, dòm ngó, cả một thời gian dài chúng ta chìm trong chiến tranh, đối phó với các thế lực ngoại xâm. Vì vậy, sau khi hòa bình, trong một thời gian dài, chúng ta chủ yếu chú trọng khắc phục hậu quả chiến tranh, chú ý xây dựng đất nước hiện đại, tăng trưởng kinh tế, không chú trọng nhiều đến giáo dục tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Chính sự khiếm khuyết trong giáo dục đạo đức, đặc biệt là giáo dục đạo đức truyền thống trong nhà trường cho học sinh vẫn theo kiểu giáo dục từ chương, nhồi nhét, mới tập trung vào việc dạy chữ, chưa chú trọng nhiều vào việc dạy người, đã tạo nên sự mất cân bằng về tư tưởng ngay trong tâm hồn thế hệ trẻ.
Môi trường gia đình có vai trò quyết định đến sự phát triển nhân cách đạo đức của trẻ em. Các mối quan hệ, cách thức ứng xử của các thành viên trong gia đình cũng đều có sự ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Trong những năm gần đây, nội dung, hình thức giáo dục trong gia đình có phần bị xem nhẹ, gia đình mất dần kỷ cương, lề lối, con cái xem thường cha mẹ, vợ chồng bất hoà, anh em vì quyền lợi, giá trị vật chất mà xâu xé, tranh giành tài sản. Không có kỷ cương trong gia đình dẫn đến coi thường pháp luật ngoài xã hội.
Gia đình ngày nay phần nhiều là kiểu gia đình hạt nhân, áp lực của cuộc sống hiện đại đang làm cho nhiều bậc làm cha mẹ không còn thời gian, sức lực và cả trí lực quan tâm đến giáo dục con cái của mình, không có điều kiện gần gũi, quan tâm đến trẻ, phó thác việc giáo dục con trẻ cho nhà trường. Hơn nữa, lối sống, suy nghĩ, ứng xử của các bậc lớn tuổi trong gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ. Những mâu thuẫn, lục đục trong gia đình hay gia đình tan vỡ là nguyên nhân đẩy các em dễ rơi vào tình trạng hụt hẫng về mọi phương diện, dẫn đến rối loạn tâm lý, và dẫn đến hành vi phạm tội.
Thời kỳ trước, ở độ tuổi trước khi đến trường, trẻ em không phải chịu áp lực học hành, được tự do vui chơi thoả thích, tham dự những trò chơi tập thể, không bị gò ép. Ngày nay, giáo dục trẻ em trong gia đình đã có nhiều thay đổi, trẻ em ngày nay đã mất đi tuổi thơ, không còn được chơi những trò chơi tập thể vui nhộn. Làn sóng di cư lớn từ nông thôn vào những đô thị cùng với những khu công nghiệp, nhà máy lớn mọc lên đã thu hẹp sân chơi của trẻ em. Vào nơi cuộc sống đô thị đầy những lo toan, trẻ cũng mất đi mối quan hệ làng xóm, bạn bè, ở nhà một mình, chơi một mình. Một điểm khác biệt trong cách giáo dục của trẻ ngày nay là do sự áp đặt của cha mẹ, mong muốn con cái được học hành đến nơi đến chốn, do đó toàn bộ thời gian dành cho việc học, không có thời gian để trẻ nghỉ ngơi, chơi đùa với bạn bè, người thân.
Trước tình trạng trong xã hội ngày càng nhiều các hiện tượng hành xử trái với đạo đức, trái với truyền thống văn hóa tốt đẹp, hiện tượng phạm tội, kể cả những tội rất nguy hiểm ngày càng nhiều… trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ ngày càng trở thành vấn đề thời sự, cần được toàn xã hội quan tâm.

3.3. Vận dụng triết lý Nho giáo trong giáo dục văn hoá nhường nhịn

Hiện nay, thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục con người cả về trí và đức, chương trình học và sách giáo khoa đã có nhiều cải tiến: kiến thức được cập nhật, chương trình mang tính thời sự; bài học mang tính ứng dụng, gắn nhiều với thực tế cuộc sống; giáo dục học sinh toàn diện về các mặt: tư tưởng, đạo đức lối sống, giáo dục nhân cách, kiến thức phổ thông, kỹ năng hướng nghiệp, kỹ năng học tập … 
Tuy nhiên, nhìn chung chương trình khung của Bộ qui định vẫn quá nặng nề, đi vào tiểu tiết (đến từng chương, từng bài học), vẫn mang tính chất nhồi nhét kiến thức, chưa dẫn dắt học sinh tư duy phát hiện ra kiến thức mới. Vì vậy, giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng theo nhận thức, thói quen dạy và học cũ: trung thành với nội dung theo chương trình sách giáo khoa, sợ cháy giáo án, sợ tỉ lệ học sinh thi đạt kết quả thấp, sợ nhà trường đánh giá thi đua… nên việc cải tiến, áp dụng phương pháp mới trong giảng dạy vẫn chưa thống nhất, chưa áp dụng một cách triệt để.
Lật lại vấn đề giáo dục của Nho giáo, có thể nói quan điểm then chốt xuyên suốt toàn bộ nội dung trong giáo dục của Khổng Tử chính là việc xây dựng đạo đức cho con người, “Tu thân” là quan trọng. Ông coi giáo dục đạo đức là nhiệm vụ cơ bản, là cái gốc trong giáo dục con người, quan điểm này cũng được các nhà biên soạn Quốc văn giáo khoa thư thể hiện rất rõ trong nội dung mà chúng tôi đã phân tích ở mục 2. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử cũng đã có nhiều quan điểm tiến bộ, người xưa cũng đã thực hiện  những nội dung phương pháp giáo dục này mà bây giờ chúng ta đang thực hiện “đổi mới”: “Tuỳ theo khả năng tiếp thu của học trò mà người thầy có phương pháp giảng dạy hướng dẫn thích hợp; Học đi đôi với suy nghĩ, không học vẹt; Học đi đôi với hành; Tinh thần cầu chân, cầu thị; Khách quan nhìn nhận sự vật; Nhận thức tác động quan trọng của môi trường xã hội; Bình đẳng trong giáo dục”[45].
Thiết nghĩ trong sự nghiệp giáo dục hiện nay, kết hợp với sự đổi mới, cách tân theo hướng hiện đại, chúng ta cũng nên biết học người xưa, đặc biệt vận dụng một số nội dung bài học trong Quốc văn Giáo khoa thư, phương pháp giáo dục của Khổng Tử đối với công tác giáo dục hiện nay ở các trường tiểu học có những điều rất thiết thực. Trong sự nghiệp trồng người, phải xác định "Nhân" là gốc, như điều Bác Hồ đã từng căn dặn, từ đó xây dựng chiến lược đào tạo con người toàn diện vừa có “Tâm – Đức” vừa có “Tài”.
Quan điểm giáo dục của Khổng Tử ra đời cách đây hơn 2500 năm, nhưng những tư tưởng này vẫn còn giá trị đối với nền giáo dục ở Việt Nam chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Từ những năm đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh xã hội tranh tối, tranh sáng như vậy, nhưng trong các trường học ở Việt Nam đã có một bộ sách giáo khoa được xem là chuẩn mực khai tâm cho học trò. Chuẩn mực ở đây là “tư tưởng văn minh và việc bảo lưu những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp[46]. Nội dung những bài học trong sách ngắn gọn, dẫn giải khúc chiết, dễ hiểu, văn phong đơn giản, mượt mà, cách truyền đạt bài học tự nhiên, không khiên cưỡng…  phù hợp với sự tiếp nhận của lứa tuổi trẻ nhỏ. Những quan điểm, luận giải trong Quốc văn giáo khoa thư thiên về sự kế thừa, lĩnh hội các giá trị đạo đức, luân lý truyền thống Nho giáo, tạo dựng một nền tảng luân lý cho trẻ nhỏ, tạo nên sức sống và sự thích ứng Nho giáo ở giai đoạn mới.
Trong giáo dục gia đình, ông bà, cha mẹ phải là tấm gương về nhân cách cho con cái noi theo, các thành viên trong gia đình phải cùng góp sức chung tay giữ vững nếp nhà, tạo không gian văn hóa gia đình với những truyền thống văn hóa tốt đẹp, giúp thế hệ trẻ có nền tảng văn hóa vững vàng, có bản lĩnh để chống lại những tác động xấu của môi trường bên ngoài.
Trong hệ thống giáo dục, chúng ta cần chú trọng vai trò và giá trị của người thầy. Người thầy cần thấu hiểu những giá trị nhân văn của Nho giáo trong việc đề cao con người, yêu thương đồng loại, giữ đúng phép tắc ứng xử có tôn ti trật tự, có thứ bậc trên dưới. Người thầy cũng chính là tấm gương nhân cách cho trò noi theo. Dạy cho học trò những giá trị cuộc sống, biết hy sinh những lợi ích cá nhân để hướng đến những mục tiêu, lợi ích cao cả của cộng đồng. Đặc biệt giúp thế hệ trẻ ý thức sâu sắc về việc rèn luyện, trau dồi đạo đức, trí ruệ; tu dưỡng nhân cách, sống hài hòa, có lý tưởng, khát vọng cống hiến.
Mỗi cá nhân cần có bản lĩnh vững vàng, cần có những nhận thức đúng đắn, phân biệt tốt - xấu, tránh xa những cám dỗ, học cách nhẫn nhịn, phải biết kiềm chế, tự điều chỉnh cảm xúc của chính bản thân mình trong các tình huống gặp phải trong cuộc sống.
Nếu trong gia đình và trường học, chúng ta chú ý giáo dục đạo đức, dạy dỗ trẻ hướng thiện ngay từ bậc tiểu học thì có lẽ những vấn nạn hiện nay sẽ không nhiều. Những giá trị khai sáng, giá trị nhân văn trong Quốc văn Giáo khoa thư vẫn còn những giá trị quan trọng trong giáo dục đạo đức, giáo dục văn hoá gia đình trong bối cảnh kinh tế, xã hội hiện nay.
____________________
Văn hoá truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của truyền thống Nho giáo, những quan điểm của Nho giáo đã tạo thành những chuẩn mực đặc thù của văn hoá Việt Nam, đặc biệt trong văn hóa ứng xử.  Những giá trị giáo dục của Nho giáo trong giáo dục văn hóa nhường nhịn đã được “bản địa hóa” phần nào cho phù hợp với xã hội truyền thống Việt Nam.
Mặc dù một số quan điểm của Nho giáo chưa phù hợp như sự bất bình đẳng nam nữ, về quan điểm anh em phải cùng chung sống với nhau trong một nhà, các bài học đều nhằm mục đích áp đặt lên người học những kiến thức, những chuẩn mực đã được định sẵn, vì vậy năng lực tư duy, phê phán của trẻ học sẽ không được kích thích… nhưng những giá trị giáo dục của Quốc văn Giáo khoa thư như tinh thần nhân văn trong môi trường giáo dục thời kỳ này rất cao, tạo ra những thế hệ con người chuẩn mực, lễ nghi, phép tắc trong gia đình và ngoài xã hội, phù hợp với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Giáo dục văn hoá nhường nhịn là nhân tố quan trọng hình thành nhân cách con người. Những bài học giáo dục văn hoá nhường nhịn qua Quốc văn Giáo khoa thư có thể không còn nguyên giá trị phù hợp, nhưng xét về bản chất, về cốt lõi vấn đề, giá trị của sách vẫn còn những giá trị đáng trân trọng, nhất là những giá trị chuẩn mực đạo đức được truyền dạy, những giá trị văn hoá dân tộc truyền thống, giá trị nhân văn, rất cần thiết cho sự định hướng những bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam ngày nay trong thời đại mới.






[1]  Trinh Doãn Chính 2012: tr. 257
[2]  Trần Thị Thanh Tâm, Nguyễn Thị Tâm 2013: tr. 2
[3]  Nguyễn Khuê 2012: tr. 456
[4]  Nguyễn Khuê 2012: tr. 281 – 295
[5] Yêu mến cha mẹ, tr. 10
[6] Giúp đỡ cha mẹ, tr. 11
[7] Sớm tối chăm nom cha mẹ, tr. 26
[8] Thờ mẹ kính cha, tr. 48
[9] Gọi dạ bảo vâng, tr. 19
[10] Làm con phải cho dễ dạy, tr. 246
[11] Ông tôi, tr. 82
[12] Cháu phải kính mến ông bà, tr. 46
[13] Chú, bác, cô, dì, tr. 30
[14] Chú, bác, cô, dì, tr. 31
[15] Cả nhà ai cũng có công việc, tr. 65
[16] Anh em như thể tay chân, tr. 29
[17] Ông già với bốn người con, tr. 216
[18] Lòng kính yêu chị, tr. 228
[19] Thờ cúng tổ tiên, tr. 23
[20] Ngày giỗ, tr. 114
[21] Quyển gia phả, tr. 52
[22] Học trò đối với thầy, tr. 24
[23] Anh em bạn học, tr. 26
[24] Người học trò tốt, tr. 20
[25]  Người học trò xấu, tr. 22
[26]  Học để làm gì, tr. 72
[27] Thương yêu kẻ tôi tớ, tr. 59
[28] Đứa trẻ có lễ phép, tr. 17
[29] Đi phải thưa về phải trình, tr. 22
[30] Thức khuya dậy trưa, tr. 30
[31] Mấy điều cần cho sức khoẻ, tr. 36
[32] Tr. 129
[33] Chọn bạn mà chơi, tr. 80
[34] Nên giúp đỡ lẫn nhau, tr. 97
[35] Lễ phép với người tàn tật, tr. 99
[36] Khuân tảng đá, tr. 82
[37] Trang sức, tr. 146
[38] Tr. 196
[39] Tr. 236
[40] Tr. 251
[41] Tr. 268
[42] Tr. 269
[43] Tr. 362
[44] Phải biết sửa mình, tr. 362
[45]  Nguyễn khuê 2012: tr. 295 – 311

 ________________________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1)      Trịnh Doãn Chính (chủ biên) 2012: Lịch sử triết học Phương Đông, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2)      Phan Đại Doãn 2009: “Một số đặc điểm Nho giáo Việt Nam”, Những vấn đề Khoa học xã hội và Nhân văn: chuyên đề triết học, NXB ĐHQG TP. HCM: 323-329.
3)      Vũ Ngọc Khánh 2007: Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, Tp. HCM
4)      Nguyễn Khuê 2012: Khổng Tử chân dung, học thuyết và môn sinh, NXB Phương Đông, Tp. HCM.
5)      Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận (biên soạn) 2000: Quốc văn Giáo khoa thư, NXB Thanh Niên, Tp. HCM
6)      Phan Ngọc 2001: Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học.
7)      Trần Thị Thanh Tâm, Nguyễn Thị Tâm 2013: “Triết lý giáo dục Khổng Tử và sự tương thích đối với quá trình xây dựng con người ở nước ta”, Bản tin khoa học CĐTM, số 24
8)      Trần Ngọc Thêm 2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp. Hồ Chí Minh
9)      Khổng Tử (Nguyễn Hiến Lê dịch) 1995: Luận Ngữ, NXB Văn học
10)  Trần Quốc Vượng 2000: “Nho giáo và văn hóa Việt Nam”, Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, tr 501 – 515.
11)  Nguyễn Vĩnh Nguyên (truy cập 15.01.2018): Cái buổi thơ ấu đó nay còn đâu:
13) Đỗ Văn Biên (truy cập 17.01.2018): Thực trạng đời sống văn hóa và lối sống của thanh niên, học sinh – sinh viên ở Tp. HCM: http://www.vnuhcm.edu.vn/?ArticleId=9df5b580-639a-427e-9745-7d598132bcf8
14)  Hoàng Cửu Long (truy cập ngày 9.3.2018) Văn hóa nhường nhịn trên đường: https://tuoitre.vn/van-hoa-nhuong-nhin-tren-duong-425025.htm

==========================
TS Lê Thị Ngọc Điệp, Khoa Văn hoá học – ĐHKHXH&NV, (ĐHQG TP. HCM)bài viết dành cho Hội thảo TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM, VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN ĐẶT RA YÊU CẦU XÂY DỰNG XÃ HỘI NHƯỜNG NHỊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét