của cá nhân. Ừ thì viết ra một ít khi còn tỉnh kẻo sau này lẫn lại
ăn nói linh tinh!
1-
Tuổi thơ và định mệnh nghiên cứu
Tuổi
thơ tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đất Hưng Nguyên (Nghệ An) đầy truyền thống...;
tuổi thơ tôi cũng gắn liền với thời kỳ mà đất nước đang phải oằn mình hàn gắn vết
thương chiến tranh và tìm kiếm lối ra cho nền kinh tế đang trên đà rơi vào đáy
của khủng hoảng (1972-1989).
Sinh
ra trong gia đình nông dân nhưng có ảnh hưởng khá nhiều di sản của tầng lớp
trung nông thời kỳ phong kiến mà ông bà, tổ tiên để lại; nên trong ý thức của
cá nhân vẫn muốn giữ gìn cái truyền thống của gia đình, và muốn vươn lên kế
nghiệp truyền thống khoa bảng và di sản đồ nho của tổ tiên để lại.
Do
vậy, những buổi đến trường, những khóa học của tuổi thơ mà cho đến nay vẫn mang
đậm dấu ấn sự nghiêm túc, cầu thị. Trong 12 năm học phổ thông, không một buổi
nghỉ học, không một lần thầy cô khiển trách vì không thuộc bài.
Thế nhưng, những năm 1989-1990, trong bối cảnh kinh tế cả nước rơi vào khủng hoảng
trầm trọng; con đường đi vào đại học khi đó đã không còn là sự lựa chọn của học
trò ở các vùng quê nghèo. Tốt nghiệp phổ thông tôi không tham gia dự thi vào đại
học mà đi lên các vùng rừng núi Đakrông (Quảng Trị), A Lưới (Thừa Thiên - Huế),
Quỳ Hợp, Quỳ Châu (Nghệ An) hay vào vùng Bà Rịa - Vũng Tàu để kiếm sống bằng
nhiều nghề khác nhau. Dấu chân tôi đã in đậm trên những vùng đất đãi Vàng rừng
thiêng nước độc Tà Rụt, A Lưới, vùng đất dữ Đá Đỏ Quỳ Hợp, Quỳ Châu, hay những đầm
nuôi tôm vùng Xuyên Mộc, Vũng Tàu... Những trận sốt rét nơi rừng thiêng nước độc;
những trận chiến kinh hoàng tranh giành lãnh địa khai thác vàng, đá đỏ vẫn in đậm
trên thân thể cả dấu vết và tâm lý...
Nhưng
rồi cuộc mưu sinh cũng chỉ để lại những sự trải nghiệm vô định, không nhìn thấy
tương lai vốn luôn được định hình một mục tiêu vươn tới đang chảy trong huyết
quản.
Giã
từ sự thăng trầm từ đời sống thực tế với tương lai mịt mờ của những người lao động
ở đáy cùng từng chia ngọt sẻ bùi; tôi trở về quê gia nhập Quân đội (1993) với ước
nguyện sẽ phấn đấu đi học sĩ quan. Nhưng rồi cánh cửa vào các trường sĩ quan
cũng không được mở ra cho cá nhân. Và lúc này mục tiêu vào đại học lại thôi
thúc bản thân phải đạt để chứng minh bản thân và thỏa ước vọng có thể làm cái
gì đó.
Mục
tiêu vào Đại học Luật và Đại học Tổng hợp như là một nguồn động viên cho ý chí
tự ôn luyện thi trong những ngày quân ngũ. Trong cái rủi có cái may, âu cũng là
số phận. Ở vùng rừng núi Nghĩa Đàn (Nghệ An), mà cũng có hồ sơ giả đăng ký thi
đại học, để rồi ước vọng làm luật sư không thành (hồ sơ giả đã không được gửi đến
trường, quá hạn tuyển sinh không nhận hồ sơ bổ sung), nhưng lại như là số phận. Những ngày cuối cùng chuẩn bị thi đại học, Trường Đại học Sư phạm 1 Hà Nội và Đại
học Tuyên Giáo (Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày nay) vẫn còn ưu ái nhận hồ
sơ cuối cùng bởi ưu tiên cho "cháu bộ đội" từ rừng núi ra thi. Kết quả
thi cả Khoa Tâm lý giáo dục (Đại học Sư phạm 1) và Khoa Xã hội học (Khóa đầu
tiên, Đại học Tuyên giáo) đều trúng tuyển. Ngày nhận giấy báo từ các trường đại
học cũng là những ngày không quên ở Đại đội 3 (C3, kho Quân khí 812). Việc ra
quân khi chưa hết hạn nghĩa vụ quân sự là một sự gian nan, để rồi phải nhập học
muộn hơn một tháng so với các bạn sinh viên khác.
Việc
chọn ngành Xã hội học có lẽ là một sự chỉ định của số phận, từ cậu sinh
viên Xã hội học (10/1994), Học viên cao học Xã hội học và rồi Nghiên cứu sinh
Xã hội học (kết thúc tháng 8/2008), là một đường thẳng tiến vừa học vừa làm với
niềm đam mê khoa học thực sự, niềm đam mê Xã hội học thực sự - Số phận đã cho
tôi một lựa chọn đúng đắn từ ngày bước chân vào giảng đường đại học.
2-
Những lựa chọn nghiên cứu như quy định cho số phận
Những
tháng năm công tác ở Bộ Công an (1999-2009), run rủi có ông anh từ Công an Nghệ
An ra tìm hiểu nghiên cứu bước đầu về Xung đột xã hội, mà thời điểm những năm
1999-2000 nhắc đến những từ xung đột xã hội, mâu thuẫn nội bộ, mâu thuẫn chính
trị như là những điều tối kỵ. Hội thảo đầu tiên lý luận và thực tiễn về xung đột xã hội đã được đưa vào tổ chức tại
trụ sở Bộ Công an 44 Yết Kiêu, và từ đó thuật ngữ Xung đột như một ma lực để
tôi dốc toàn tâm toàn ý nghiên cứu cả lý luận và cả trên thực tiễn. Những vụ
tranh chấp đất đai của người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long; những xung đột
(bạo loạn) vì đất đai của đồng bào người Thượng vùng Tây Nguyên (2001 và 2004);
những trận "rào làng chiến đấu" giữa dân với chính quyền cơ sở, những
tranh chấp giữa dân với doanh nghiệp ở mảnh đất Hà Tây (cũ)... đều được mô tả,
bình luận trong luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ. Hai cuốn sách về chủ đề
xung đột và quá trình ra đời của chúng như một minh chứng cho quá trình nhận thức,
thừa nhận vấn đề của cá nhân và xã hội.
Cuốn
thứ nhất Xung đột xã hội về đất đai ở
nông thôn thời kỳ đổi mới (trường hợp tỉnh Hà Tây), ra đời năm 2008, đã phải
đưa vào Nxb Công an nhân dân xuất bản dưới "phán quyết" Lưu hành nội bộ; đến cuốn thứ hai Xung đột xã hội từ lý luận đến thực tiễn
nông thôn Việt Nam, ra đời năm 2013, cũng Nxb Công an nhân dân nhưng đã
không còn phải Lưu hành nội bộ, âu
cũng là một sự thắng lợi của chuyển biến nhận thức vấn đề.
Tiếp
đến là sự dang tay chào đón của Viện Nghiên cứu dư luận xã hội (Ban Tuyên giáo
Trung ương), tiếp thêm mạch tư duy cho Xung
đột xã hội; nghiên cứu Dư luận xã hội
nó được xem như là một chỉ báo bước đầu của xung đột xảy ra phải tính đến, và
như là một kết quả, hệ quả mà xung đột mang đến. Để rồi đề tài nghiên cứu cơ bản
Dư luận xã hội được tài trợ bởi Quỹ
Nafosted và cuối cùng là cuốn sách Dư luận
xã hội: lý luận và thực tiễn, ra đời 2015, đánh dấu sự trưởng thành thực sự
về sự nghiệp nghiên cứu. Cái thành công của nó không chỉ đơn thuần là cuốn sách
được ra đời, mà thông qua các bài giảng, cá nhân đã có cơ hội trình bày kết quả
nghiên cứu, và nhận thức về nó đến các bạn sinh viên, học viên, nghiên cứu
sinh.
Tuy
nhiên, những vấn đề xã hội bức xúc dẫn đến xung đột xã hội, hình thành dư luận
xã hội, hay ngược lại xung đột xã hội, dư luận xã hội giải quyết những vấn đề
xã hội bức xúc đó dù gì thì vẫn để lại những dấu ấn không mong muốn cho phần
đông thành viên trong cộng đồng/nhóm. Đi tìm lời giải bền vững cho xã hội đầy rẫy
những vấn đề xã hội bức xúc, đó mới là điều trăn trở của cá nhân bản thân.
Sáu
lần đi ra nước ngoài, đặt chân đến các quốc gia: Pháp, Hà Lan, Bỉ, Đức, Nhật,
Úc, Hoa Kỳ... trong đó 3 lần đi nghiên cứu Chủ
thuyết phát triển của Việt Nam[1],
những câu hỏi thường trực đặt ra trong đầu tôi suốt quá trình tiếp cận: Tại sao
đất nước họ phát triển như vậy? Tại sao con người và sự vật ở các quốc gia đó
có sự trật tự hợp lý như vậy? Tại sao sự trật tự, nền nếp và kỷ cương bên cạnh
sự thân thiện, đầy trách nhiệm có mặt ở từng con người, nhóm người ở đất nước họ
như vậy? Một sự trật tự trước sau, trên dưới đến từng chi tiết nhỏ; một sự tôn
trọng đối thủ/đối tác; một cái gì đó thật khó mô tả trong cuộc sống thể hiện ở
đẳng cấp văn minh cao... Nói như vậy, không phải tất cả ở họ, ở các quốc gia đó
đều là sự hoàn hảo tuyệt đối mà có nơi này nơi kia, còn bạo lực, còn tệ nạn,
còn tham nhũng, quan liêu... nhưng đó không thực sự để lại nhiều dấu ấn.
Trong
khi đó, nhìn về Tổ quốc mình cứ có cảm giác một sự lộn xộn khó tả, trong khi
đang thừa hưởng một truyền thống hàng ngàn năm lẫy lừng với những chiến thắng
oanh liệt; trong khi đang thừa hưởng một nền văn hóa riêng, đậm đà bản sắc mà cả
ngàn năm đô hộ của người Hán đã trụ vững và không thể Hán hóa.
Chúng
ta đang thiếu hay đã mất cái gì chăng?
Sự
nhường nhịn, xây dựng một xã hội nhường nhịn đặt nền tảng cho văn hóa nhường nhịn
- ý tưởng đã xuất hiện sau một ngày đi dã ngoại được chứng kiến nhiều hành động
xã hội đẹp ở Washington DC (10/2014).
Xây
dựng Xã hội nhường nhịn là xã hội mà ở đó:
Có
con
người Nhường nhịn: là người biết cạnh tranh vươn đến "cái đẹp", phải
là người biết xấu hổ với cái sai do mình hay tổ chức mình gây ra, biết thông cảm, chia
sẻ, biết dung hòa trong quan hệ; lấy tình thương, trách nhiệm và lòng vị tha để
thay thế cho sự tức giận, bốc đồng.
Con người nhường nhịn không phải cứ là người hiền lành, không phải là người
không cạnh tranh trong hoạt động sống.
Xã hội nhường
nhịn: là xã hội mà ở đó mỗi cá nhân tự định vị được bản thân
trong tổ chức, nhóm xã hội của mình; mỗi tổ chức, nhóm xã hội được xây dựng vì
một xã hội trách nhiệm, dân chủ, minh bạch; con người biết điều tiết hài hòa lợi
ích giữa cá nhân và cộng đồng.
Tuy nhiên,
trong quá trình tự định vị bản thân để tạo thành cái bản gốc ổn định, chúng ta
cần hiểu rằng cái gốc của nhường nhịn là sự hiểu biết và cơ sở để cho sự nhường
nhịn tồn tại phải là sự công bằng. Do vậy, nhường nhịn là cái cao quý, nhưng ẩn
chứa sau đó bất kể ai trong tâm thế cũng mong muốn có sự công bằng nhất định;
đây là cái mà chính thể cần lưu tâm.
Trong xã hội
nhường nhịn, đối tượng nào được thụ hưởng giá trị của sự nhường nhịn cũng quan
trọng... nhưng dù sao sự nhường nhịn hoặc những
mất mát/ thiệt thòi (trong ngắn hạn) của mình phải được xã hội hoặc đối tác ghi
nhận. Do vậy, người được nhường nhịn chính là đang thụ hưởng
giá trị của hạnh phúc; người nhường nhịn thì đương nhiên là hạnh phúc... vì
hạnh phúc là cho đi.
Xã hội
nhường nhịn là xã hội mà ở đó mỗi người
dân, mỗi người lãnh đạo quản lý phải chịu trách nhiệm của mình trước những hành
vi thiếu chuẩn; cần có những thay đổi bắt đầu từ những cá nhân đơn lẻ thay vì
chờ đợi sự thay đổi từ phương diện vĩ mô của toàn bộ cấu trúc.
Xã hội
nhường nhịn là xã hội mà ở đó, Văn hóa xấu hổ, Văn hóa chịu trách nhiệm, và cả
Văn hóa từ chức được thể hiện như một lẽ sống bên cạnh những giá trị văn hóa
đời thường khác.
Cuối cùng về Xã hội nhường nhịn và Văn hóa nhường nhịn:Văn hóa nhường nhịn vốn được nhắc đến và phần nào thể
hiện trong đời sống xã hội của chúng ta từ rất xa xưa.
Ở cấp độ
nhận thức, Văn hóa nhường nhịn có cấp độ cao hơn Xã hội nhường nhịn. Văn hóa
nhường nhịn vốn đã có nhưng vì nó không được xây dựng trên nền tảng căn bản nên
dễ bị biến đổi, dễ bị mất đi. Xã hội nhường nhịn chính là hồn cốt, là căn bản
của Văn hóa nhường nhịn. Văn hóa nhường nhịn không từ một Xã hội nhường nhịn
thì sẽ có Văn hóa nhường nhịn rỗng. Như vậy, để có cái gì đó trở thành văn hóa
thì cần phải có những giá trị căn bản được xây dựng nên cho nó; để có Văn hóa
nhường nhịn trước hết phải có Xã hội nhường nhịn làm giá trị căn cốt.
Quyển 1 cuốn
sách Xây dựng xã hội nhường nhịn ra
đời trên tâm thế chưa sẵn sàng, nhưng lại là yêu cầu bức thiết của thực tiễn xã
hội; một số nhận định đưa ra còn phiến diện, bi quan hoặc đánh giá còn quá mạnh
mẽ, nhưng tất cả đều muốn đánh động vào tâm lý, tình cảm của người Việt trước
các hành vi, hành động còn "thiếu nhường nhịn" để góp phần xây dựng
một xã hội tốt đẹp hơn.
Quyển 2 đang
hoàn thành với tham vọng Xã hội nhường
nhịn phải được tiếp cận với tư cách là một lý thuyết, với đầy đủ bộ các
khái niệm, các cặp phạm trù, phương pháp tiếp cận... Dù có đạt được tham vọng
đó hay không thì nó cũng sẽ được ra đời vào đầu năm 2019, bởi chờ đợi một sự
hoàn hảo là không thể. Thời gian còn dài cho sự hoàn thiện tiếp theo, nếu nó là
một định mệnh.
Lời bạt cuối
cùng cho lời tự vấn sớm là khi ngẫm nghĩ những gì đã trải qua, hình như định
mệnh số phận trời đã sắp đặt sẵn trước cho mình, tất cả như là có sự chuẩn bị. Hy
vọng những bước tiếp cuộc đời mình sẽ hoàn thành Theory of Nhường Nhịn Society.
Hy vọng lắm
thay!!!
Phan
Tân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét